lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin Blogs:

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu Nhật-Tân:

Blog Chu-Mộng-Long:

Blog Cu Làng Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Diễn-Đàn Công-Nhân:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Blog Quê Choa VN:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Diễn-Đàn Sửa Đổi Hiến-Pháp 1992:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Trí-Lực:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Weblinks:

 

 

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại

Thư-Viện Bồ Đề Online_Thư Viện Hoa Sen

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam Ở Trong Và Ngoài Nước

Một tài liệu căn bản tối quan trọng soi sáng vụ Phật Giáo 1963:
Phúc Trình Của Phái Bộ Liên Hiệp Quốc Về Tình Hình Phật Giáo Năm 1963 tại nước Việt-Nam Cộng-Hòa

1, 2

Nguồn: trachnhiemonline

hậu tập vào dịp Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901 - 2001)
Người thâu tập và trích dịch:
Tôn Thất Thiện

e. Chỉ thị Chính Phủ về việc treo cờ nhắm vào Công Giáo
Ông Gunewardene : "Về vụ lễ này có cờ Vatican treo trước ngày Phật Đản không?" . '
Đại biểu Chính Phủ: "Tôi thấy rằng Đại sứ không chấp nhận lời đáp của tôi vì ông hỏi trước ngày Phật Đản cờ Vatican có được treo trong thị xã không. Cho nên tôi sẽ trở lại lời giải đáp của tôi cho tất cả các câu hỏi của Ngài một cách khái quát để Ngài hiểu ông Tướng muốn nói gì.
Tôi sẽ lập lại toàn bộ sự việc để làm sáng tỏ truyền thống và dữ kiện về vấn đề này"
Ông Gunewardene: "Tôi chỉ hỏi cờ của Vatican có được treo khắp nơi ở Huế trước ngày Phật Đản không?"
Đại biểu Chính Phủ: "Tôi không có mặt ở Huế, mà vì vậy tôi muốn trình bày như sau. Trước hết, Tổng Thống Ngô Đình Diệm không phân biệt gì giữa cờ Phật Giáo và cờ Công Giáo, nhưng ông lại rất khắt khe phân biệt giữa cờ Quốc Gia và mọi cờ khác, để tỏ rõ lòng yêu nước của ông. Trong những cuộc thị sát của ông ở thủ đô, mỗi khi ông thấy một lá cờ Quốc gia bị rách và dơ bẩn, là ông khiển trách người trách nhiệm về tình trạng này (tr..79)
Trước ngày Phật Đản, có một buổi lễ Công Giáo tại đó có treo cờ Công Giáo nhưng không có cờ Quốc gia. Việc này xảy ra không phải ở Huế, mà ở một nơi khác. Tổng Thống lấy làm giận, tuy rằng cuộc lễ này chẳng dính líu gì đến Quốc gia và cử hành trong một toà nhà tư. Cho nên chỉ thị của Tổng Thống rằng cờ Quốc gia phải được treo cao hơn tất cả các cờ khác là một chỉ thị nhắm vào Công Giáo.
Rủi thay, chỉ thị của Tổng Thống được ban ra 3 ngày trước ngày lễ Phật Giáo...Trong trình bày của ông Tướng, ông nói rằng chỉ thị được thi hành một cách cố tình hoặc vô tình. Tôi nói nóđượcthi hành một cách cố tình, bởi những người chống đối chính phủ và cộng sản. Nó bị cộng sản lợi dụng. Cộng sản đã xâm nhập hàng ngủ Công Giáo và Phật Giáo. Họ lợi đụng việc này. Cho nên, kẻ tạo ra vụ rắc rối không phải là Phật Giáo, mà là những kẻ-gọi-là Phật Giáo mà thực chất là những kẻ xâm nhập”
f- Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết và Tuyên ngôn 10/5/1963
Ông Gunewardene: "Ông cho là Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết là cộng sản sao?"
Đại biểu Chính phủ: "Không. Tôi xác quyết là Hoà Thượng chống phong trào này. Tôi nói cho Đại sứ biết thế nào. Trong phòng này có một người Phật Giáo - Viện trưởng Đại học. Ông ta không tham gia phong trào."
Ông Gunewardene: "Ngày 10/5/1963 có một Tuyên ngôn và trong đó có tên Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết."
Đại biểu Chính Phủ: “Đại sứ có hỏi xem Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết có biết đọc hay không?"
Ông Gunewardene: "Không".
Đại biểu Chính Phủ: Ngài Thích Tịnh Khiết không biết đọc [chữ Quốc ngữ].
Tôi có thể nói chắc với Ngài rằng Hoà Tượng Thích Tịnh Khiết không muốn ký giấy tờ, và ngày 1/5, lúc các đại biểu đến ông ta không chịu ký.
Tư lênh Quân Đoàn I: "Họ ép ông ấy ký một tài liệu viết bằng tiếng Việt, mà ông ấy chỉ biết đọc chữ Hán, cho nên ông không biết ông ký gì" (tr.80)
g- Thích Trí Quang cố gây bạo động
Đại biểu Chính Phủ: "...Đại sứ hỏi về truyền thống về việc phát thanh các lễ. Phải phát thanh lại các buổi lễ là một truyền thống, với điều kiện là cuộc phát thanh nói trực tiếp về buổi lễ, ngay cả ở các thị xã khác. Thỏa hiệp là buổi phát thanh hướng trực tiếp về dân chúng để họ có thể nghe ở trong nhà họ, chớ không phải là một dịp để kêu gọi tụ hội trước đài phát thanh và nghe ở đó. Vậy vụ rắc rối là một vụ được tổ chức, và ngay từ sáng hôm đó, khi toàn bộ chương trình lễ tôn giáo được thay đổi để lấy cớ đưa ra đòi hỏi. Tôi có thể trình với quý Ngài nhân chứng xác nhận điều này. Nhiều sư chống việc này. Vậy vụ rắc rối đã được Thích Trí Quang dự định trước, và vấn đề phát thanh được sắp đặt trước ngày 7 và 8/5 để gây một cuộc bạo động. Vì vậy mà phép phát thanh bị từ chối" (tr.81)
Bộ Trưởng Ngoại Giao Tr­ương Công Cừu
Trong cuốc tiếp xúc với Bộ Trưởng Ngoại Giao Tr­ương Công Cừu, ông này chú tâm đến hai điểm:
1) Ông ta nhấn mạnh đòi hỏi của Chính phủ Việt Nam là Phái Bộ phải làm thật rõ rằng Phái Bộ đến Việt Nam là do Chính phủ Việt Nam mời, chớ không phải do người ngoài áp đặt: nó là một Phái Bộ Thâu Tập Dữ Kiện (Fact-finding Mission), chớ không phải là một Phái Bộ Điều Tra (Inquiry Mission), vì danh từ "điều tra" này ám chỉ là Phái Bộ có quyền phán xử Chính Phủ Việt Nam.
2) ông nhấn mạnh Thích Trí Quang là "kẻ cầm đầu thực sự của tất cả các phong trào phiến loạn Phật Giáo", và sự núp ẩn của ông này trong Sứ Quán Hoa Kỳ là một phần của chiến thuật của các phong trào này đối lại chiến lược của Chính Phủ nhằm tách cộng sản khỏi ấp chiến lược, với mục tiêu cô lập hoá Chính Phủ và gây hiểu lầm giữa Chính Phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ" (tr.84)
Đoạn III - Phỏng vấn các nhân chứng khác
Từ lúc có tin một phái bộ được Đại Hội LHQ thành lập để sang Việt Nam tìm hiểu (Fact-finding Mission) về vụ Chính phủ Việt Nam bị gán tội là hiếp đáp Phật giáo thì Phái bộ nhận được 116 bản tường trình của cá nhân, nhóm, và tổ chức tư. Trong số đó có 67 bản Phái Bộ nhận được ở New York và 47 bản khi Phái Đoàn ở Việt Nam(tr.241). Căn cứ trên những điều trình bày trong các bản tường trình đó Phái Bộ lập lên một danh sách nhân chứng mà Phái Bộ yêu cầu Chính Phủ Việt Nam cho họ được tự do phỏng vấn; đồng thời Phái Bộ cũng căn cứ trên 50 các bản tường trình đó mà soạn ra một bản liệt kê những điếu mà Chính Phủ Việt Nam đã bị gán cho là vi phạm.(xin xem d­ới đây). Phần khác, trong thời gian ở Việt Nam, Phái Bộ đã trực tiếp phỏng vấn 47 nhân chứng tại khách sạn Majestic, nơi Phái Bộ trú ngụ, một số chùa mà Phái Bộ lựa chọn - trong đó có các Chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Giác Lâm, ở Sài Gòn, Chùa Từ Đàm ở Huế, các nhà tù, những trung tâm giam thanh niên, sinh viên trong đó có Trại Giam của Tổng Nha Cảnh Sát, Trung Tâm Thanh Niên Lê Văn Duyệt.
Danh sách những ng­ời Phái Bộ muốn phỏng vấn gồm có 60 nhân vật từ đủ các giới của xã hội Việt Nam. Danh sách đó đã được trình ở trên (xin xem trương 6-7)
Phần khác, Phái Bộ căn cứ trên những thơ và tài liệu nhận đ­ược để lập hai bản ghi những tội (allegations) mà người ta gán cho Chính Phủ Ngô Đình Diệm. Phái Bộ cũng căn cứ trên hai bản gán tội (allegations) này để đặt câu hỏi khi phỏng vấn các nhân chứng mà Phái Bột tự lựa chọn, không cần có sự thỏa thuận của Chính Phủ. Phái Bộ đã phỏng vấn các nhân chứng này một cách hoàn toàn tự do và kín, không có sự hiện diện của đại diện của chính quyền Việt Nam, và trong phúc trình của Phái Bộ danh tánh của các nhân chứng này cũng không bị tiết lộ.
Để giữ khách quan, dưới đây, những điều ghi trong Phúc Trình của Phái Bộ sẽ được dịch nguyên văn, không có bình luận gì cả, Những điều mà các nhân chứng thuộc hoặc các giới chống Chính Phủ, hoặc các giới trung lập, trả lời các câu hỏi cặn kẽ của Phái Bộ tự nó nói lên sự thực vì những câu hỏi rất sâu sắc, tường tận, và gay gắt của Phái Bộ.
Về bản thứ nhất kê các tội gán cho Chính Phủ Ngô Đình Diệm:
1. Một nhà sư ở Chùa Xá Lợi chống cự lại đã bị ôm và ném xuống sân từ lan can cao hơn 6 thước.
2. Quân nhân đã buộc sư phải ra khỏi chùa Xá Lợi bằng hơi làm chảy nước mắt và bắn súng. .
3. Những người đột kích đã mang đi trái tim của vị Tử vì đạo Thích Quảng Đức.
4. Quân đội đã gây thương tích cho hàng trăm sư và ni cô trước khi đ­ưa họ vào tù ngày mà biến cố xả ra. .
5. Một số người phải đưa vào bệnh viện Huế vì bị thở hơi độc không quen.
6. Ngày 21/8 Quân đội hủy hoại bàn ghế trong các chùa.
7. Sau vụ rắc rối tháng 5, ngày 3/6 các chùa ở Huế bị cắt nước.
8. Giám đốc đài phát thanh Huế từ chối không phát thanh băng về lễ Phật Giáo.
9. Chính Phủ giới hạn quyền sở hữu đất đai của sư Phật Giáo nhưng Công Giáo thì không bị giới hạn.
10. Chính Phủ miễn thuế khai thác rừng và đất trồng cho người Công Giáo.
11. Chính Phủ không cung cấp các phương tiện để xây cất phòng ốc, cửa tò vò etc...trong khi Công Giáo thì lại được
12. Chính Phủ công nhận 6 ngày lễ Công Giáo trong khi Phật Giáo chỉ được một.
13. Có rất nhiều trường hợp nhân viên Chính phủ cho người phá rối các lễ Phật Giáo, ăn cắp thức ăn và đồ cúng của Phật Giáo ở các nơi thờ Phật và làm dơ bẩn các nơi thiêng của Phật Giáo. Các hộ Phật Giáo thấy bắt buộc phải dời bàn thờ Phật khỏi những chỗ chính vào những nơi kín đáo để khỏi bị những kẻ Chính Phủ mướn phá hoại.  
14. Ngày 16/9, 1963, Chính Phủ áp đặt người của ­mình làm lãnh đạo cộng đồng Phật Giáo.
15. Ông phạm Dinh Binh, Thư ký của Hội Sinh Viên Phật Tử Huế bị bắt và tra tấn đến mức không còn nhận ra ông ấy được.
16. Ông Tôn Thất Nghiệp, Thư ký của Hội Sinh Viên Phật tử sài Gòn cũng bị bắt ngày 4, và hiện nay đang còn ở tù
17. (Trang 276-277)
Về bản thư thứ nhì kê các tội gán (allegation) cho Chính Phủ Ngô Đình Diệm:
1. Ngày Thiên Chúa Giáng Sinh, Đài phát thanh Sài Gòn phát thanh những chương trình gồm có lễ và bài hát Công Giáo trong khi họ hoàn toàn không có gì hết cho Lễ Phật Đản.
2. Lính và sĩ quan Phật Giáo bị gởi đi những nơi xa xôi hẻo lánh và sĩ quan nào muốn được thăng thưởng mau thì phải cải đạo theo Công Giáo.
3. Những gia đình nghèo bị thuyết phục theo đạo Công Giáo để được tiền, gạo hay việc làm.
4. Những trung tâm dinh điền và khu trù mật gồm toàn người Công Giáo được thành lập, Phật tử được khuyến khích đến ở đấy và thuyết phục theo Công Giáo. Nếu họ từ chối thì họ bị đe doạ nhiều cách.
5. Ấp Chiến Lược được xây dựng ở trong những vùng nông thôn; những người ở nông thôn phải dỡ nhà và phá chùa đi để dời vào những ấp đó. Trong ấp chỉ được xây nhà ở riêng, không đ­ợc xây chùa. Nếu sư Phật Giáo từ chối không hạ chùa của mình xuống để dời vào trong ấp Chiến Lược thì họ bị nghi là "thờ ơ trong việc chống cộng” (tr.279)
Theo phần IV của Phúc Trình, Phái Bộ đã phỏng vấn 47 nhân chứng, nhận được 116 bản thông báo. Phần IV của bản Phúc Trình này rất dài: nó gồm 65 trương (188-253).  Không thể dịch chép lại toàn bộ được. Nhưng may là không cần làm như vậy, vì các thành viên của Phái Bộ hỏi đi hỏi lại một số câu hỏi, và được trả lời t­ương tự. Cho nên chỉ cần dịch chép những trả lời nào có tính cách đại diện nhứt. Trong những trường hợp mà những lời đáp chứa những dữ kiện hay quan điểm chiếu ánh sáng mới vào tình hình Việt Nam không những về năm 1963, mà cả 28 năm qua, thì những lời đáp đó sẽ được trích dài.
1- Vùng có nhiều kêu ca nhứt: Trung Phần
Trưởng Phái Bô: "Người ta nói rằng Chính Phủ Việt Nam tội đã vi phạm quyền tôn giáo của cộng đồng Phật Giáo, điều này có đúng không?"
Nhân chúng số 1: "Tất cả những điều mà người ta nói Chính Phủ Việt Nam vi phạm về hành đạo hay về quyền của Phật Giáo đều xuất phát từ Miền Trung Việt Nam, bốn năm trước ở bốn tỉnh khác nhau. Các tỉnh đó là: Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Còn về nơi khác thì tôi không biết..." (tr.89)
Nhân chứng số 2: "...Không phải chỉ có vấn đề có và những va chạm đổ máu tại đài phát thanh Sài Gòn gây ra vụ nổi loạn của Phật Giáo; nguyên do có từ lâu và có rất nhiều nguyên do. Ở Nam Phần, ở Sài Gòn hay những vùng lân cận, người ta không biết gì về những đòi hỏi ngược đãi mà Phật tử ở Trung Phần phải chịu đựng. Có thể nói là có một sự đối xử tàn bạo với Phật Giáo trong các tỉnh Trung phần: Phú Yên, Quảng Ngãi và Bình Định." (tr.96)
....
Tự thiêu đ­ược tổ chức
Trưởng Phái Bô: "ông mấy tuổi?"
Nhân chứng số 8: "19 tuổi."
Trưởng Phái Bộ: "ông được thụ phong khi nào?"
Nhân chứng: “Tháng 3, 1962. Tháng 7 năm nay, tôi lên Sài Gòn và lúc đó Thích Trí Quang quyết định gởi tôi đi tỉnh Bình Định [Vĩnh Bình?] để học thêm về giáo lý, thị xã Bêu Tra [Bến Tre?], Chùa Long Phước.
Tháng 5, 1963 tôi được gọi về Sài Gòn để thăm Hội. Tôi trú tại Chùa Xá Lợi, và phận sự của tôi là hầu mấy vị sư lớn. Và chính lúc đó tôi được biết về năm điều yêu sách của Phật Giáo. Ngày 30/5/1968 tôi tham gia biểu tình Phật Giáo ở Sài Gòn, xong tôi trở về chùa Xá Lợi.
Đêm 20/8, tôi đến Chùa Ấn Quang và tôi bị bắt vào lúc 1 giờ đêm. Tôi bị giữ 15 ngày ở một nơi mà tôi không nhận ra được. Tôi được sư lớn ở Chùa Ấn Quang đến thăm, và mấy Vị này nói chuyện với chính quyền. Ngày sau đó, tôi được thả về. Cũng lúc đó, những sư và ni cô khác bị bắt cũng được thả về.
Tôi trở về Ấn Quang và thấy có nhiều sư và ni cô ở đó. Chính ở đó mà tôi được biết Thích Thiện Hoa và Thích Nhật Minh, Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch ủy Ban Thống Nhất Phật Giáo Thuần Túy. Lúc đó, hai vị sư này ra một tuyên bố nói rằng tất cả tăng sĩ nên trở về chùa của mình vì một chùa không có khả năng nuôi ăn một số đông sư và ni cô như thế. Vì chùa của tôi ở quá xa, nên tôi xin phép ở lại Sài Gòn, và tôi trú ngụ tại nhà của ni cô Diệu Thanh. Bà này ở gần Chùa Ấn Quang.
Trong thời gian này tôi nghe nói đến những tàn ác của Chính Phủ đối với Phật Giáo. Ví dụ, tôi nghe nói rằng sư và ni cô bị đánh, bị gãy tay, bị nhận nước chết, bị mỗ bụng. . .Tôi cũng nghe nói họ bị bắt trở lại và những người nào không bị bắt lại bị ép buộc không được hành đạo của mình nữa, hay bị ép tự thiêu. Tôi rất xúc động về những tin này.
Một hôm tôi ở Phạm Giang Gia Long một sinh viên tự xưng là một đoàn viên của một hội sinh viên gặp tôi và rủ tôi tham gia phong trào Phật Giáo. Tôi nhận lời vì tôi tin rằng đó là phục vụ Phật Giáo. Người sinh viên đó hỏi tôi ở đâu. Tôi nói tôi ở nhà một ni cô ở gần Chùa Ấn Quang.
Hai ngày sau người sinh viên đó đến tìm tôi ở địa chỉ này và đưa cho tôi một gói trong đó có hai bộ áo quần. Người thanh niên đó nói rằng Chính Phủ đang bắt nhiều sư và ni cô. Người ấy nói nếu tôi ra đường tôi nên mặc loại áo quần này để khỏi bị nhận ra là Phật Giáo. Người ấy cũng bảo tôi nên đổi chỗ ở. Anh bảo tôi đến ở Chùa Từ Vân ở đường Thái Lập Thành ở Gia Định, để tôi có thể trốn chính quyền lúc đó đang bắt sư. Do đó, tôi đến Chùa Từ Vân.
Ngày 22/10, người sinh viên đó lại đến tìm tôi và lần này anh ấy nói rằng tên anh là Linh. Anh nói Hội Sinh viên Phật Giáo đã đổi danh xưng và đổi quan hệ. Anh nói tổ chức mới nầy làm cho cộng sản. Ngày 23/10 tôi được chở taxi đến một nhà trường. (tr.115): trường Thị Lang ở đường Phú Nhuận. Tôi được dẫn đến một hồ bơi và ở đó gặp hai người. Người đầu tên là Thanh, và người thứ­ hai là một nhà sư trá dạng là dân thường mang một cái mũ ni-lông. Họ nói họ rất vui gặp tôi. Họ cũng nói rằng Phái Bộ Liên Hiệp Quốc sắp đến Việt Nam để điều tra về bang giao giữa Chính Phủ và cộng đồng Phật Giáo. Họ nói với tôi họ cần 10 người tình nguyện, và họ muốn biết tôi có nhận làm một trong 10 người đó không.
Tôi nhận vì tôi rất xúc động về những tin tức mà tôi đã nghe trước đó về Chính Phủ ngược đãi các sư. Tôi nghĩ rằng số phận tôi rốt cuộc rồi cũng sẽ như vậy. Vì vậy, tôi nhận lời.
Họ nói với tôi rằng tôi sẽ chết cho chính nghĩa Phật Giáo. Khi tôi chấp nhận họ rất vui mừng. Họ cũng nói với tôi rằng một sư tên là Phan Mỹ sẽ tự thiêu trước Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế, và một người khác trước Nhà Thờ Tân Định ở đường Hai Bà Trưng. Họ nói tôi tự thiêu vào ngày Lễ Quốc Khánh vì lúc đó sẽ có đông người, kể cả đại diện của Phái Bộ Liên Hiệp Quốc.
Tôi hỏi họ làm sao tôi vào khu đó được vì khuôn viên làm lễ bị ngăn chận. Họ bảo tôi đừng lo; nhóm khuyến khích tự thiêu sẽ sắp đặt tất cả mọi việc cho tôi. Tôi hỏi sắp đặt thế nào, và họ trả lời rằng ngày 26/10 họ sẽ đưa cho tôi một bộ đồ trắng và một áo cà sa vàng tẩm xăng. Họ sẽ cấp cho tôi một cái ôtô dán nhãn hiệu cho phép nó vào trong khuôn viên. Khi ô tô đến đó, tôi cứ bước ra một cách tự nhiên, và ô tô sẽ đi chỗ khác. Tôi sẽ ngồi xuống, mặc áo cà sa vàng vào, quẹt một cây diêm và tự đốt. Trước đó, họ sẽ đưa cho tôi vài viên thuốc để tôi khỏi cảm thấy đau đớn. Xong, họ bảo tôi đi đi. Họ đưa cho tôi 100 đồng để đi xe.
Ngày 24/10, người sinh viên lại đến Chùa Từ Vân đưa cho tôi ba bức thư. Một bức gởi cho Tổng Thống. Thư này đòi tự do tôn giáo, trả tự do cho các sinh viên, sư, ni cô bị bắt. Thư thứ hai gởi cho Chánh Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, ở Chùa Ấn Quang. Thư này buộc tội Thích Thiện Hoa đã phản bội sư, ni cô, và Phật tử. Thư thứ ba gởi cho Phái Bộ Liên Hiệp  Quốc, giải thích tại sao tôi tự vận. Những bức thư này viết sẵn trước và họ bảo tôi ký. Tôi không do dự gì. Tôi ký ngay.
Sáng 25/10, tôi bị cảnh sát bắt trước khi người sinh viên đến đón tôi và đưa tôi đi chỗ khác.
Trong xe cảnh sát tôi thấy một người tên là Hải mà tôi biết trước kia ở Chùa Xá Lợi. Tôi có thấy anh ở Chi Lăng ngày 23. Lúc đó tôi và anh ấy chào nhau, và tôi nói với anh là tôi sẽ không gặp anh ấy nữa sau ngày 26. Chỉ khi xe đến Tổng Nha Cảnh Sát tôi mới hiểu rằng người đã báo cảnh sát là ông Hải.
Ở đó tôi bị để một mình trong một căn phòng, và sau đó họ đem tôi ra và giải thích cho tôi biết là không có vị sư nào bị chính quyền giết chết, rằng chẳng có chuyện đánh đập tàn bạo, và toàn bộ chuyện mà tôi đã nghe là chuyện nói láo. Tôi nói với cảnh sát rằng tôi đã bị lừa, và nay tôi hiểu tình hình. Cho nên, tôi gởi một bức thơ cho Tổng Thống để xin lỗi, và nói cho ông ấy biết về bức thư mà tôi đã gởi cho ông. Tôi cũng gởi một bức thư cho Phái Bộ Liên Hiệp Quốc. Vì nay tôi đã thấy rõ sự việc, nên tôi không còn ý định tự vận nữa (tr.117).
2.- Những chuyện tra tấn và đánh đập được gán cho Chính phủ
Ông Gunewardene: "ông bị cảnh sát bắt giữ khoảng một tuần...Họ đối xử với anh thế nào? Họ có cho ông ăn uống tử tế không?"
Nhân chứng số 8: “Có. Họ đối xử với tô tử tế. Họ cấp cho tôi loại thức ăn mà tôi yêu cầu. Tôi không thích đồ mặn và họ cấp cho tôi thức ăn không bỏ muối."
....
Ông Gunewardene:"ông có bị đánh đập không?"
Nhân chứng: " Không." (tr.118)
...
Ông Amor: “Các ông có bị đánh đập không?"
Một trong các nhân chứng (số 11. 12. 13. 14): “Không”.
Nhưng về những người khác thì tôi không biết." (tr,131)
Ông Amor: " Họ có đe doạ các ông nếu các ông nói thiệt về các kêu ca của các ông không?"
Nhân chứng trên đây: "Không." (tr.131)
Ông Volio: "Ngày 20/8 họ có phá hủy bàn ghế của các ông không?"
Một trong những chứng (Số 15. 16. 17): "Chúng tôi bị dẫn đi và 12 ngày sau chúng tôi về thì thấy mọi thứ vẫn ở chỗ cũ." (tr.135)
Trưởng Phái Bộ: "Họ đối xử với các ông thế nào?"
Một trong 3 nhân chứng trên đây: "Chúng tôi không bị hành hạ. Nhưng về những người khác thì tôi không biết."
Trưởng Phái Bô, hỏi một người khác: "Còn ông thì sao?"
Nhân chứng: "Tôi cũng không. Họ bảo chúng tôi đi, và chúng tôi đi; chúng tôi tuân lệnh." (tr. 137)
3.- Một số nhân chng Phật Giáo không đổ lỗi cho Chính phủ
Ông Gunewardene: "Năm 1957, Chính Phủ bảo Phật tử đừng làm lễ Phật Đản nữa. Có đúng không? Ông có nhớ không?"
Nhân chứng số 22 hoặc 23: “Không đúng. Lúc đó tự do. Chỉ sau ngày 8/5 mới có rắc rối."
….
Ông Gunewardene: “Người ta không nghĩ rằng các sư trẻ phải đi lính vì họ đã thề không sát sinh?" (tr. 156)
Nhân chứng (số 22 hoặc 23): '”Khi họ được gọi đi lính, một số đã xin miễn, và một số đã được miễn. Các người khác không được." (tr. 156)
Ông Gunewardene: "Nhưng đó là ép đi lính - và nó tùy Chính phủ?" (tr. 156)
Nhân chứng: “Phải. Một số bị đi ép đi lính; một số xin hoãn lại." (tr.156)
Ông Gunewardene: "Anh có chấp nhận điều này không?
Nhân chứng: " Không. Không khi nào." (tr.156)
Ông Koirala: "Vì Phật Giáo ghê tởm bạo lực?"
Nhân chứng: "Phải, vì chúng tôi ghê tởm sát sinh."
Ông Volio: "Do đâu ông tin rằng có bất bình đẳng?"
Nhân chứng: "Về luật pháp Gia Tô Giáo và Phật Giáo ngang quyền nhau, nhưng trong thực tế có thể có vài bất bình đằng. Trong cương vị tôn giáo, họ có những nguyên tắc giống nhau; trong thực tế, họ bất bình đảng."
Ông Volio:"Đó là bình đẳng gì?"
Nhân chứng: "Trong một số việc, Phất Giáo bị kỳ thị; ví dụ, khi họ xin tiền hoặc xin trợ giúp, người Công Giáo được trước."
Trưởng Phái Bộ: "Chúng tôi sắp đi viếng các nhà tù. Ông có thể cho tôi tên một số người mà tôi nên gặp ở đó không?"
Nhân chứng: Được. Tôi sẽ cấp cho Ngài. Ngài cũng nên viếng các hội sinh viên và trường Phật giáo" (tr.156)
4.- Phỏng vấn sinh viên bị giam giữ
Phái Bộ viếng Trại Thanh Niên Lê Văn Duyệt ở Sài Gòn, nơi sinh viên bị bắt bị giam giữ. Phái Bộ phỏng vấn ông Giám đốc Trại cùng sinh viên bị giam giữ ở đó. Họ phỏng vấn 31 sinh viên, 20 họp thành nhóm, và 11 sinh viên mỗi người riêng, không có người chứng. Họ tìm giải đáp cho những tội mà người ta gán cho Chính phủ - bắt bớ bừa bãi, ngược đãi, gây thương tích v.v... Các phỏng vấn này rất dài. Ở đây không chép lại hết được. Chỉ những câu hỏi và lời đáp đặc thù được chọn.
Trưởng Phái Bộ: "Chúng tôi có thể gặp một số sinh viên và nói chuyện với họ không?"
Ông Giám đốc: " Được, đương nhiên.'
Phái Bộ đi đến một phòng ngủ tập thể và nói chuyện với một nhóm lối 20 sinh viên.
Đáp lời yêu cầu của ông Trưởng Phái Bộ, ông Giám đốc và tất cả các giáo viên đều dời phòng.
Trưởng Phái Bộ: "Chúng tôi là một Phái Bộ của Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi đã nói chuyện với ông Giám đốc và ông ấy đã cung cấp cho tôi một số tin tức. Bây giờ chúng tôi muốn hỏi mấy cậu một số câu hỏi." .
Ông Ignatio Pinto: "Các cậu có bao nhiêu người?"
Sinh viên A: "65, nhưng tôi không chắc."
Trưởng Phái Bộ (hỏi một trong số sinh viên): "Cậu bị bắt ngày nào?"
Sinh viên B: " Ngày 19/9/1963."
Trưởng Phái Bộ: " Cậu bị bắt ở đâu."
Sinh viên B: " ở ngoài phố, trong khi tôi ra khỏi nhà."
Trưởng phái Bộ: " Tại sao cậu bị bắt?".
Sinh viên B: "Tôi chống Chính phủ:"
Trưởng Phái Bộ: " Tại sao cậu chống Chính phủ?"
Sinh viên B: " Tôi có mục tiêu chính trị riêng."
Trửơng Phái Bộ (hỏi một sinh viên khác): " Cậu bị bắt ngày nào?"
Sinh viên C: "Ngày 10 tháng 9."
Trưởng phái Bộ: " Có phải cậu bị bắt ở trường không?"
Sinh viên C: " Không, tại nhà tôi, lúc 1 giờ sáng."
Trưởng Phái Bộ: "Tại sao cậu bị bắt?"
Sinh viên C: " Vì tôi có mục tiêu chính trị; tôi chống Chính phủ."
Trưởng Phái Bô: " Cậu thuộc tôn giáo nào?"
Sinh viên C: " Tôi theo Phật Giáo."
Trưởng Phái Bộ: "Những mục tiêu chính trị của cậu liên có liên quan với tôn giáo cậu không?"
Sinh viên C: " Không liên quan gì cả." (tr. 168)
Trưởng Phái Bộ cho sinh viên xem một danh sách có ba tên sinh viên, và hỏi có ai biết họ không.
....
Sau đó, Phái Bộ quyết định gặp các sinh viên riêng từng người thay vì chung nhóm. Phái Bộ đi qua một phòng khác và gặp sinh viên mỗi người riêng.
Ông Gunewardene: " Cậu là ngư­ời Huế
Nhân chứng (số 24): (không. Tôi là một sinh viên Sài Gòn."
Ông Gunewardene: "Có bao nhiêu sinh viên ở Sài Gòn bị bắt sau các cuộc biểu tình?"
Nhân chứng: " Có thể là vài trăm người. Tôi không biết chắc. Trong số đó chỉ có một một số ít bị giữ lại. Họ là những người cầm đầu. Còn thì đ­ược thả về." (tr.169)
Ông Gunewardene:"Cậu nói cho tôi biết, là Phật tử, cậu bất mãn về những gì ?"
Nhân chứng "Là Phật tử, bất mãn của tôi là Phật Giáo bị áp bức."
Trưởng Phái Bộ: "Cậu cho thế nào là áp bức? Sự áp bức này thể hiện thế nào?"
Nhân chứng: "Tôi muốn nói rằng cá nhân tôi không bị ngược đãi, nhưng khi tôi đến chùa để cầu nguyện, tôi trà trộn với Phật tử và hậu quả là tôi có thể bị bắt, v.v...Và lại có cuộc rắc rối ở Huế tiếp theo sự từ chối phát thanh tuyên bố trên đài...Sau đó Phật Giáo nổi lên chống quyết định đó và Quân đội dùng xe thiết giáp và khí giới khác viện cớ là cuộc xáo động là do Việt cộng." (tr.170)
Ông volio: " Cậu có liên hệ gì về chính trị không?"
Nhân chứng số 25: " Không."
Ông Gunewardene: " Tại sao cậu bị bắt?"
Nhân chứng: "Vì họ nghi rằng sinh viên gây lộn xộn. Tôi bị bắt vì tình nghi".
Ông Gunewardene: "Cậu có bị đánh đập không?"
Nhân chứng: "Tôi không bị đánh, nhưng anh tôi bị."
Trưởng Phái Bộ: ”cậu có phải là Phật Giáo không?"
Nhân chứng (Số 26): " Tôi là Phật Giáo."
Trưởng Phái Bộ: "Cậu bị bắt khi nào?"
Nhân chứng: “Ngày 28 tháng 8."
Trưởng Phái Bộ: "Cậu có tham gia biểu tình không?"
Nhân chứng " Có."
Trưởng Phái Bộ: "Cậu có bị đánh đập không?"
Nhân chứng: “Không" (tr. 171) ~
Trưởng Phái Bộ: "Phật Giáo ở xứ này bị coi như thua kém Công Giáo, cậu có nghĩ như vậy không?"
Nhân chứng: " Về phía Chính phủ thì không có như vậy như­ng trong một vài trường hợp có sự thiên vị"
Ông da Costa: "Ngược đãi thể hiện thế nào, nó mang hình thức nào?"
Nhân chứng: “Dùng danh từ “ngược đãi" có lẽ quá đáng; có thể chỉ là gây phiền hà, khi họ thay đổi giờ đọc kinh, thay đổi diện mạo của các chùa. Nói rằng gây phiền hà trong việc hành đạo có lẽ đúng hơn."
Ông da Costa: " Cậu có nghĩ rằng có sự xâm nhập của cộng sản vào phong trào Phật Giáo không?"
Nhân chứng: "Ta có thể chia sinh viên thành hai nhóm: một nhóm ủng hộ mục tiêu Phật Giáo, và một nhóm bị ảnh hưởng bên ngoài, nhưng cũng một số ít thôi; tuy vậy, có người đã lợi dùng tình hình" (tr.173)

Trưởng Phái Bô: "Trong lúc cậu bị bắt và sau đó, cậu có bị tra tấn hay đánh đập không?”
Nhân chứng số 29: “Tôi không có bị đánh đập, nhưng  tôi nghe bạn tôi nói rằng họ bị đánh." (tr. 175)

Ông Koirala: " Cậu bị bắt ngày nào và ở đâu?"
            Nhân chứng (Số 30): " Ngày 7 tháng 10, tại nhà tôi"
Ông Koirala: "Tại sao anh bị bắt?"
Nhân chứng: "Tôi là thành viên của một nhóm chống Chính phủ. Không phải là một tổ chức, nhưng một nhóm bàn về chính trị, không phải chỉ tôn giáo. Tôi thích chính trị hơn..." (tr.175)

Ông Amor: " Cậu bị bắt ở đâu và lúc nào ?"
Nhân chứng (số 31): “Tôi bị bắt tại nhà tôi, ngày 7 tháng 10."
Ông Amor: " Cậu có bị đánh đập không?"
Nhân chứng: " Không." (tr.179)
Ông Amor: "Cậu có biết người thanh niên nào bị đánh đập hay tra tấn không?"
Nhân chứng :"Tôi có nghe nói rằng có vài người bị đánh." (tr. 179)

Ông Amor: “Cậu là Phật Giáo?"
Nhân chứng (số 34): “Tôi không phải Phật Giáo mà cũng không phải là Công Giáo. Tôi không theo tôn giáo nào cả."
Ông Correa da Costa: "Vì lý do nào mà cậu bị bắt?"
Nhân chứng: "Tôi không phải cọng sản. Tôi bị bắt rối vì tôi có mục tiêu chính trị."

Ông Ignacio Pinto: " Cậu có bị đánh đập không?"
Nhân chứng: "Trường hợp tôi là một trường hợp đặc biệt. Vì người ta biết tôi là lãnh tụ một nhóm chính trị nên không khi nào tôi bị đánh..."

Vấn đề gây thương tích và tra tn
Phái Bộ viếng Nhà thương Do [Duy?] Tân để tìm biết xem có nạn nhân của bạo lực và tra tấn trầm trọng không. Họ được ông Phó Giám đốc Nhà thương tiếp. Bản Phúc Trình ghi như sau:

...
Ông Amor: "...Chúng tôi nghe nói rằng trong những vụ lộn xộn về Phật Giáo gần đây có vài tu sĩ Phật Giáo bị thương, trong lúc xảy ra lộn xôn hoặc sau đó, và họ điều trị tại nhà thương của ông. Họ còn đây không?" '
Phó Giám đốc: "Lúc này, có một người. Có một số phải đưa vào nhà thương, và chúng tôi đã cho họ về khi thấy họ đã bình phục.."
Ông Amor: "Sau các vụ biểu tình có bao nhiêu người?"
Phó Giám đốc: "Ngày 20 tháng 8 có 5 vị sư và 4 ni cô
...
Ông Amor: "Có ai bị trúng đạn không?"
Phó Giám đốc: " .Không." .
Ông Amor: "Trong số ni cô và sư mà ông điều trị, có ai ở trong tình trạng nguy cập không?" .
Phó Giám đốc: "Người bị nặng nhứt phải nằm bệnh viện 60 ngày, và người nhẹ nhứt ba ngày."
ông Amor: “Có ai bị thương vì đạn không?"
Phó Giám đốc: "Không. '
ông Amor: "Có ai bị đè bẹp không?"
Phó Giám đốc: "Không."
ông Amor: "Có ai bị bỏng không?"
Phó Giám đốc: " Không."
Ông Amor: "ông có biết họ thuộc về một chùa hay họ ở chùa nào đến?"
Phó Giám đốc: "Theo cảnh sát thì họ đều từ Chùa Xá Lợi đến." (tr. 168)
Ông Koirala: "Phần lớn các vết thương ở phần nào của thân thể họ?"
Phó Giám đốc: " ở phần dưới chân: gót, cổ chân, bàn chân. Không có thương tích ở phần trên của thân thể."
ông Amor: "Có bị thương vì hơi nước mắt hay hơi khác?"
Phó Giám đốc: "Không."

Phó Giám đốc: "Quý Vị hỏi tôi về thương tích của các sư và ni cô. Tôi có bổn phận phải nói thêm rằng chúng tôi cũng có nhận điều trị cảnh sát bị thương. Lúc này chúng tôi đang điều trị 20 người cảnh sát...trong đó có một trường hợp gãy chưn." '
Ông Koirala: "Trong số sư và ni cô có ai bị gãy chưn không?" . .
Phó Giám đốc: " Không." '

4.- Nhân chứng tự nguyện và thông báo (communications)
Ngoài 85 nhân chứng kể trên đã làm chứng theo lời yêu cầu của Phái Bộ, còn 11 nhân chứng nữa - Số 36-47 - đã đến gặp Phái Bộ với tư cách tình nguyện. Những người này có thể chia ra làm hai nhóm: nhóm lập lại những tội gán cho Chính phủ, và nhóm phủ nhận những gán tội đó. Những tuyên bố của các nhân chứng này rất dài ( 53 trang, 187-240) Trong giới hạn bài này không thể lặp lại những tuyên bố của toàn thể các nhân chứng được. Nhưng, may thay, việc này không cần thiết vì những lời tuyên bố của những người này không khác những lời tuyên bố của 35 người trước bao nhiêu. Một điều đáng ghi ở đây, là một số nhân chứng không đồng quan điểm với những Phật tử đã gán cho Chính phủ hành hạ Phật Giáo lại là Phật tử. Ví dụ, nhân chứng số 36 (tr.187 và tiếp theo), hay số 38 (tr.198 và tiếp theo).
Phần khác, Phái Bộ nhận được 116 thông báo (communications) của cá nhân, nhóm hay tổ chức tư. Trong số đó, 49 thông báo nhận được ở: Việt Nam, và 67 thông báo tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York. .
Cũng như trong trường hợp các nhân chứng kể trên, các thông báo này nói ngược nhau. Theo Phái Bộ trong số 116 thông báo, 54 bản chứa "ít hoặc nhiều' tuyên bố với nhiều chi tiết gán hay phủ nhận rằng Chính Phủ kỳ thị hay ngược đãi cộng đồng Phật Giáo ở Việt Nam. .
Phái Bộ gôm các tuyên bố trên đây thành 5 loại:
1) Những tội gán cho Chính Phủ trước ngày 8/5/1963;
2) Những tội gán cho Chính Phủ về rắc rối ngày 6-8/5/1963 ở Huế,
3) Những tội gán cho Chính Phủ trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1963;
4) Những tội gán cho Chính Phủ về những lý do ngược đãi Phật Giáo;
5) Các thông báo phũ định những tuyên bố gán cho Chính Phủ tội kỳ thị hay ngược đãi cộng đồng Phật Giáo.
Tưởng cũng nên ghi rằng trong phần này, cũng như trong toàn bộ Phúc Trình, Phái Bộ nhứt quán dùng danh từ allegation(gán cho, đỗ cho) khi nói về những tuyên bố chống Chính Phủ Ngô Đình Diệm. Phần khác, Phái Bộ nói:
"Phái Bộ không có phương tiện và thời gian để kiểm chứng tất cả những tội gán cho Chính Phủ trong những thông báo đó. Nhưng Phái Bộ đã căn cứ trên nội dung của những thông báo đó để lập lên danh sách những nhân chứng sẽ phỏng vấn và đặt những câu hỏi cho nhân viên chính phủ và nhân chứng trong những phỏng vấn đã được tường thuật ở nơi khác trong phúc trình này.
Như ta đã thấy, Phái Bộ được Chính Phủ Việt Nam hoàn toàn hợp tác làm dễ dãi trong mọi việc, để cho họ hoàn toàn tự do đi lại, lựa chọn nhân chứng, và phỏng vấn trong kín đáo.
Tưởng cũng nên nói thêm rằng tuy vậy báo chí Mỹ vẫn xuyên tạc hô lên là Chính phủ Việt Nam cản trở công việc điều tra của Phái Bộ, đặc biệt là ém nhẹm thông cáo của Phái Bộ kêu gọi nhân chứng gặp Phái Bộ hay gởi thông báo cho Phái Bộ, khiến ông Trưởng Phái Bộ phải ra thông cáo ngày 26/10 để phủ nhận những tin thất thiệt ác ý đó.
Phái Bộ cũng ghi nhận điều sau đây:
Phái Bộ đã ghi tên một số sư và sinh viên mà người ta tố rằng họ đã bị bắt giữ, bắt cóc, hay bị giết. Nhưng thời gian sau Phái Bộ đã phỏng vấn được các Vị Thích Trí Thủ, Thích Quảng Liên, Thích Tâm Giác, Thích Thiện Minh, mà một số thông báo nói là đã bị giết. Phái Bộ cũng phỏng vấn được một sinh viên mà vài thông báo nói là đã mất tích. (tr.248).
III Kết Luận
Bản Phúc Trình làm xong và có để phát vào ngày 7 tháng 12, 1963. Nhưng, như Thượng Nghị Sĩ Dodd nói, nó không được người ta biết đến cho đến khi có vài ký giả xông xáo nắm được nó. Như đã thuật ở trên [xin xem trang 1-3] một lý do đáng kể là Đại sứ Lodge đã can thiệp với Đại sứ Gunewardene, đại diện của Ceylon, ém nhẹm nó đi, đừng đưa nó ra bàn ở Đại Hội Liên Hiệp Quốc. Ông: Gunewardene đã làm theo lời yêu cầu của ông Lodge. Và vì vậy mãi đến năm 1988 sự ém nhẹm này mới được phanh phun ra, nhờ Bà Anne Blair, một học giả Úc viết về ông Lodge. Bà Blair biết được sự ém nhẹm này nhờ con gái ông Gunewardene. Cũng dễ hiểu tại sao Lodge tìm cách ém nhẹm bản Phúc Trình này. Lý do là bản Phúc Trình này rất đầy đủ và vô tư công bố sự thực về vụ Phật Giáo. Nếu người ta đọc được bản Phúc Trình này thì có hai dữ kiện sẽ được đưa ra ánh sáng:
1) Báo chí Hoa Kỳ đã bóp méo sự thật, và chính quyền Hoa Hỳ đã tìm cách bưng bít sự thật về vụ Phật Giáo.
2) Trong khi có một số hành động có tính cách kỳ thị đối với Phật Giáo ở vài nơi ở cấp địa phương ở một số tỉnh Trung Phần - đặc biệt là ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình .Định, Phú Yên -, tuyệt nhiên Chính phủ Ngô Đình Diệm không hề có chính sách đàn áp và kỳ thị đối với Phật Giáo. .
Hai khía cạnh nói trên đã được nhấn mạnh bởi Thượng Nghị Sĩ Dodd, người mà có thể nói là người đã khám phá ra Phúc Trình, và ông Volio Jimenez, đại sứ đại diện Costa Rica, một trong những thành viên của Phái Bộ Liên Hiệp Quốc Thu Tập Dữ Kiện ở Nam Việt Nam và người đã đưa ra kiến nghị ngày 13/9/63 lên án chính phủ Ngô Đình Diệm.
Tưởng cần nhắc lại vài tuyên bố quan trọng của hai ông trên này, trích trong bức thư của T.N.S Dodd gởi cho ủy Ban Tư Pháp của Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ, mà tôi đã trình các bạn trong dịp lễ Tưởng Niệm Tổng Thống năm ngoái. [xin các bạn xem lại bài đó:
Thêm hai tài liệu rất quan trọng về cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963 mà độc giả nên biết:
TNS Dodd nói:
Tuy rằng bản phúc tinh này chủ yếu chỉ trình bày dữ kiện - lời khai của nhân chứng và tài liệu - không đưa ra kết luận chính thức của Ủy Ban của Liên Hiệp Quốc, tôi tin rằng bất cứ người khách quan nào có đọc nó cung phải kết luận rằng những báo cáo về Chính quyền Ngô Đình Diệm khủng bố Phật Giáo một cách quy mô, quá lắm chỉ là một sự thổi phồng quá mức, và ít lắm là tuyên truyền bẩn thỉu và gian lận".

"Đại sứ [Volio] nói với tôi rằng sau hai tuần điều tra ráo riết tại Việt Nam, ông đi đến kết luận là những lời buộc tội chế độ Diệm tại Liên Hiệp Quốc không có căn cứ, không chấp nhận được; ông nghĩ ràng những bằng cớ chất đống không cho thấy rằng có sự kỳ thị về tôn giáo hay xâm phạm tự do tôn giáo.

“Chúng ta đã được báo cáo rằng Chính phủ Diệm đã khủng bố tôn giáo một cách tàn nhẫn đến nỗi những sư vô tội đã bị dồn vào thế phải tự vận để phản đối. Nhưng nay ta thấy sự thật không phải vậy; sự thật là không hề có khủng bố, hay chỉ có thổi phồng quá mức, và cuộc khuấy động mang tính cách chính trị .
“Phái đoàn không đi sâu vào động cơ chính trị của những người dẫn đầu cuộc khuấy động của Phật Giáo. Nhưng tôi nghĩ rằng lời giải đáp cho câu hỏi này đã được Thích Trí Quang, ng­uời lãnh tụ Phật giáo số 1 đã lánh nạn trong Tòa Đại Sứ Mỹ, nói với “Bà Arđguerite Higgins" [Xin ' xem chi tiết về điểm này ở phần phụ bản].
Và dưới đây là tuyên bố của Đại sứ Volio Jimenez: “Cảm tưởng của tôi là không có chính sách kỳ thị, áp bức hay khủng bố đối với Phật Giáo trên căn bản tôn giáo. Những khai báo về phương  diện này thường là nghe nói, và trình bày một cách mơ hồ và tổng quát. . .
Mỗi khi một nhân chứng gắng tìm một bằng chứng cụ thể nào để trình Phái Bộ; rốt cục sự kiện chỉ là một hành vi lẻ tẻ hay cá nhân. Căn cứ trên bằng chứng, Chính quyền [Ngô Đình Diệm] không có chủ trương chính sách chống Phật Giáo vì lý do tôn giáo”.
Ngày nay, tại Đại Hội Liên Hiệp Quốc, với đại diện hơn 100 quốc gia từ khắp nơi trên thế giới, sự thật về tại sao có vụ va chạm ngày 8/5/1963 ở Huế và các vụ tự thiêu được làm sáng tỏ, và Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã được minh oan.
Tôn Thất Thiện
Tháng 11 năm 2001
PHỤ BẢN I
Phỏng vấncủa Bà Marguerite Higgins
với Thích trí Quang
(Trích trong Our Vietnam Nightmare của Marguerite Higgins, doHarper and Row, New York, xuất bản năm 1965, Chapter 2: "Machiavelli with Incense").
Trong bức thư mà Thượng Nghị Sĩ Thomas Dodd gởi cho Ủy Ban Tư Pháp của Thượng Nghị Viện, ông ta đề cập đến cuộc phỏng vấn của ký giả Marguerite Higgins với Thích Trí Quang. Cuộc phỏng vấn đó xảy ra giữa tháng 7, 1963, tại Chùa Xá Lợi. Nó như sau:
"Ở Sài Gòn khả năng khuấy động tình hình không ngớt của Phật Giáo - và chiếm tít lớn trên các báo quốc tế - hình như vô tận.
Bộ óc điều khiển tất cả là Thích Trí Quang, con người khó hiểu mà tôi chưa từng được nghe tên cho đến khi ông cho triệu tôi đến gặp ông buổi tối ngày thứ ba của tôi ờ Sài Gòn [giữa tháng 7, 1963j. Ông gọi tôi đến Chùa Lợi để đưa tôi một thông điệp để chuyển cho Tổng Thống Kennedy. (tr.24)
Tại khách sạn Caravelle người gác cửa chận tôi lại để đưa tôi một thông điệp nói rằng tôi được một người phát ngôn viên của Chùa Xá Lợi triệu tôi đến chùa để gặp vị sư quan trọng hơn tất cả . Thông điệp nói rõ rằng tôi phái đến một mình, không đem theo người thông dịch của tôi (tr.25)
Một sư trẻ, làm thông dịch, giới thiệu tôi với Thích Trí Quang, nói rằng: "Vị này là vị lãnh tụ quan trọng nhứt của chúng tôi, và Thích Trí Quang rất ít khi tiếp nhà báo. Nhưng vì Bà đại diện Toà Bạch ốc..." (tr.26)
Trước đó tôi có đưa ra thẻ phóng viên Toà Bạch ốc.
M. Higgins: "Tôi không đại diện Toà Bạch Ốc. Tôi được phép ra vào Toà Bạch ốc.
“Chính vì thể, người thông dịch trẻ nói, và đắc chí lấy cái thẻ Toà Bạch Ốc của tôi đưa cho Thích Trí Quang xem. Ông này gật đầu một cách từng trải.
"Bà được phép ra vào Toà Bạch ốc. Người trẻ lại nói, và vì Bà chỉ ở đây một thời gian ngắn, chúng tôi có  một thông điệp để Bà mang về cho Tổng Thống Kennedy ...
Cuộc đàm thoại [với Thích Trí quang] là một cuộc đàm thoại lạ thường, kéo dài hai giờ rưỡi.." [Bà Higgins nhắc đến những cuộc họp báo của Kennedy]
"Nhưng trong cuộc họp báo chót, Thích Trí Quang nói, "Tổng Thống Kennedy nói quá thuận lợi cho Tổng Thống Diệm. . . Chúng tôi có lý do tin rằng Tổng Thống Kennedy đứng về phía chúng tôi. Và chúng tôi không hiểu được”.
Trong khi tôi đang cố hiểu tuyên bố lạ kỳ này, Thích Trí Quang nhẹ nhàng nói tiếp: "Ngoài ra, nếu có vẻ kết hợp với nhữnghành động của Diệm thì Tổng Thống Kennedy sẽ làm một việc hết sức không khôn ngoan, vì , chẳng hạn, sẽ có nhiều vụ tự thiêu nữa. Không phải chỉ một hay hai, mà mười, hai mươi, có thể năm mươi vụ. Tổng Thống Kennedy nên nghĩ đến những điều ấy. Vì những biến cố đó sẽ bôi đen uy tín của Tổng Thống Kennedy cũng như của Diệm..." '
phải ông đang bảo tôi chuyển những đe dọa đó để bức ép Tổng Thống Hoa Kỳ không , tôi nói một cách hơi nóng.
"Không đâu, Thích Trí Quang nói. “Tôi chỉ nói cho Bà biết những gì sẽ xảy ra thôi... (tr.27)
Câu hỏi theo đó là tiếp tục xung khắc giữa Phật Giáo và Chính phủ có thể làm choxứ yếu đi và tạo điều kiện cho cộng sản chiếm quyền một cách dễ dàng không?.
“Có thể nó sẽ giúp cọng sản thắng”, Thích Trị Quang công nhận.
            "Nhưng” , tôi cắt ngang, "ông có ý thức rằng những gì sẽ xảy ra cho Phật Giáo nếu cộng sản chiếm quyền không?
“Nếu cộng sản chiếm quyền, Thích Trí Quang nói, "đó là lỗi của Diệm, không phải lỗi chúng tôi. ông nói thêm:Phần khác, chúng ta không thể đi đến một thoả hiệp với Miền Bắc được trước khi chúng ta loại bỏ Diệm và Nhu . (tr. 29)
Bà Higgins nhận xét: “Có một cái gì mang tính Machiavel ở ông sư này - một thứ Machiavel với hương" (tr.30)

PHỤ BẢN II

Đấu tranh và tự thiêu được sắp xếp trước
(xuất xứ: Phật Giáo Việt Nam [L.A.], số 102, tháng 10, 1997, tr. 20-23)

Trong bài phỏng vấn với Bà Higgins có câu:

"Thích Trí Quang nhẹ nhàng nói tiếp: "Ngoài ra, nếu có vẽ liên kết với Diệm thì Tổng Thống Kennedy sẽ làm một việc hết sức không khôn ngoan, vì, chẳng hạn sẽ có nhiều vụ tự thiêu nữa. Không phải chỉ một hay hai, mà mười, hai mươi, có thể năm mươi vụ..

Ý nghĩa của lời tuyên bố trên đây được một tài liệu khác soi sáng. Đó là một tài liệu xuất xứ từ giới Phật Giáo, tạp chí Phật Giáo Việt Nam. Tài liệu đó nói như sau:

"Trong cuộc tranh đẩu bảo vệ tự do tín ngưỡng dưới thời Ngô Đình Diệm, Bà [Sư Bà Diệu Không] tham dự từ đầu lời kêu gọi của Chư Tôn Lãnh đạo Phật Giáo Huế. Đêm 15 rạng ngày 16 tháng tư, tại Chùa Từ Đàm một cuộc họp quan trọng được tổ chức dưới sự chủ trì của Hoà Thượng Giác Nhiên, với sự tham gia của Hoà Thượng Giác Nguyên, Thượng Toạ Mật Hiển, Thượng Toạ Mật Nguyên, Thượng Tọa Trí Quang, Thượng Toạ Thiện Minh và chư Tôn Đức Phật Giáo Thừa Thiên. Cuộc họp đưa ra một chương trình hành động cụ thể, nêu rõ các nguyện vọng căn bản, đề nghị các phương thức giải quyết và tiên liệu các hậu quả mà điều khó tránh là sự hy sinh gian khổ. Chính trong buổi họp nầy, Bà Diệu Không đã không ngần ngại xin chư Tôn Đức cho phép mình được là đệ nhất cảm tử...Trong khi Bà đang nỗ lực định tâm bái sám...thì giữa phiên họp của Giáo Hội, Hoà Thượng Thích Quảng Đức đã thỉnh cầu chư Tôn Đức Giáo Phẩm Lãnh Đạo để cho “chúng tăng lãnh trách nhiệm hy sinh bảo vệ chánh pháp và chính Ngài sẽ đem thân làm ngọn đuốc đầu tiên."

Như vậy là những vụ va chạm (khởi đầu với vụ đài phát thanh Huế ngày 8/5/1963), và các vụ tự thiêu (khởi đầu với sự tự thiêu của Hoà Thượng Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963) đã được sắp xếp "theo chương trình hành động cụ thể” từ trước, trong buổi họp tại Chùa Từ Đàm đêm 15/4/1963: vụ va chạm tại đài phát thanh Huế hơn ba tuần, và vụ tự thiêu của Hòa Thương Thích Quảng Đức gần 2 tháng trước khi có Thông Tư của Chính Phủ về vụ treo cờ ngày 6/5/1963.

1, 2

@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:

facebook

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site