lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Hồ Sơ Chủ Quyền Của Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam

...

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

...

Nguyên Tử Của Việt Nam Và Quốc Tế

...

Tin Tức Thời Sự Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Thư Tín

...

 

Tin Tức Thời Sự - Lịch Sử Việt Nam

Noi Gương Tiền Nhân Dựng Cờ Đại Nghĩa

lichsuvietnam, hai bà trưng khởi nghĩa chống quân tàu xâm lược

1, 2, 3

Vân Anh

Sống thỏa thuê tôi trở về đất Tổ
Vào Lam Sơn tìm gặp vua Lê
…………………………………..
Theo Bắc Bình Vương gióng trống mở cờ
Tiến đánh Thăng Long núi Nùng sông Nhị
(Tôi Muốn Sống - 1962)

Từ đầu thế kỷ thứ 19 cho đến nay, Đông hay Tây cũng đều dùng bạo lực để trục lợi trên các sắc dân nhỏ yếu khác. Vì vật dục và lợi nhuận; thì dân Da Trắng hay Da Vàng đều không mấy khác nhau ở những điểm tham lam, tàn ác, bóc lột và áp bức kẻ yếu đuối hơn mình. Nhất là các sắc dân nhỏ yếu trên thế giới. Nhưng lộ liễu nhất phải kể đến Trung Cộng với kế sách thôn tính Nam Á Châu, Úc Châu. Một điều có thể nói chắc chắn rằng: “nếu Trung Cộng làm chủ được hai Châu Lục này, thì Âu Châu và Mỹ Châu đương nhiên sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới”, (muốn làm chủ hai châu lục này theo cái nhìn của Vân Anh, thì cũng không có gì lấy làm khó cho lắm!). Sách vở và tài liệu trong thập niên 40’s Cha, Anh chúng tôi đã ghi lại rất rõ. Điều này Vân Anh không cần phải nói nhiều ở đây.

Đế quốc Da Vàng Trung Hoa ngày nay hoàn toàn khác xa với đế quốc “Da Trắng” Liên Xô của thập niên 40’s hay trước đó. Đế Quốc Đỏ Bắc Kinh trong đầu thế kỷ 21 này lại có tham vọng nhiều hơn Đế Quốc Đỏ Liên Xô trước đây, vì họ muốn thôn tính toàn bộ Á Châu, Úc Châu, Âu Châu (và họ cũng đang thọc bàn tay nhơ nhớp của họ vào sâu trong Phi Châu). Làm chủ thiên hạ!. Trước đây Thành Cát Tư Hãn và bộ tham mưu của ông đã không thực hiện được, vì không có đủ nhân sự tài giỏi về chính trị (không phải quân sự) để tóm thâu toàn bộ Á Châu. Cuối cùng đạo quân “bách chiến, bách thắng Mông Cổ” đã 3 lần thảm bại trên mảnh đất Việt và sự thảm bại ở Việt Nam đã dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hệ thống chỉ đạo chiến tranh của Đế quốc Mông - Nguyên.

Xưa “Chiến sự” đã vậy; nay “Chính sự” lại khác. Trong tình thế năm 2012 này nếu muốn hóa giải sự xâm lăng bành trướng của đế quốc Đỏ Trung Cộng trên thế giới (xin nhắc lại: “Trên Thế Giới”), thì chỉ có một cách duy nhất là phải tiêu diệt toàn bộ tập đoàn Việt Gian Cộng sản tay sai bán nước của Bắc Kinh, chúng đang nắm quyền sinh sát tại Hà Nội hiện nay. Trớ trêu thay! mưu đồ bá chủ thế giới của Trung Cộng chỉ chấm dứt khi nào ngọn Cờ Đại Nghĩa của toàn dân Việt Nam đứng lên dành lại chủ quyền đất nước. Thiết nghĩ giới lãnh đạo của các nước nhỏ ở Á Châu nên hiểu rõ hơn những điều Vân Anh viết có thể viết ra đây.

Một điều chúng ta phải xác định cho rõ ràng là: Từ thập niên 40’s cho đến nay (2012), ở Việt Nam người ta chỉ thấy đa số những tên bất tài, vô dụng, tham lam nhưng chúng rất kiêu căng, tự mãn. Tệ hại hơn nửa là gần 40 năm trở lại đây, thì toàn bộ đất nước Việt Nam lại nằm dưới sự cầm quyền của tập đoàn Việt Gian bán nước Cộng Sản, với sự giúp sức của các ác thế lực, nhưng ngoài mặt thì lúc nào họ cũng giả nhân giả nghĩa và luôn nói đến “đạo đức” cũng như “nhân quyền”. Hơn 65 năm qua với sự tiếp tay của các tập đoàn đế quốc xâm lăng, xâm thực này, họ đã dùng cường quyền trấn áp những người Việt Nam có tâm huyết và thật sự yêu nước thương dân. Những người Việt Quốc Gia Chân Chính yêu nước có Lý Tưởng, có Phương Lược (xin nhắc lại là: Những người Việt Quốc Gia Chân Chính yêu nước có Lý Tưởng, có Phương Lược). Nhưng họ chưa có thời vận, tình hình của thế giới dù có ngã nghiêng nhưng tình thế lại chưa đủ chín mùi, để họ hội đủ cơ duyên đứng lên “Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa”.

Lịch sử đã cho thấy chiến tranh Việt Nam có nhiều giai đoạn khác nhau, nên yếu tố chiến thuật, chiến lược cũng khác nhau. Đặc biệt là chiến tranh Việt Nam không bao giờ giống với những suy tư, suy nghĩ của các “chiến lược gia” chỉ biết ngồi trong các phòng gắn máy lạnh, để “hoạch định chính sách”“tính toán theo quyền lợi” chứ “không có nhân nghĩa”. Nếu “tính toán theo quyền lợi” chứ “không có nhân nghĩa”, thì như vậy phương Tây cho dù có ký kết với tập đoàn Việt Gian Cộng sản hàng trăm hiệp ước đi chăng nửa, thì họ cũng không thể lôi kéo tập đoàn Việt Gian Cộng Sản ra khỏi bàn tay sắt của Đế Quốc Đỏ Trung Cộng được. Vì Bắc Kinh và Hà Nội cũng biết “tính toán theo quyền lợi” lắm chứ!. Điều này đã được các giới chức của Hà Nội và Bắc Kinh xác định rất rõ ràng và rất nhiều lần. Chúng ta cứ nhìn các tên cải lương Ngụy của Hà Nội sang chầu rìa bên Bắc Kinh mỗi ngày, mỗi tuần và mỗi tháng, thì ta có thể hiểu chúng rất rõ ràng. Vân Anh chỉ nhìn các chuyến đi của chúng, thì cũng đủ hiểu sự việc sẽ xảy ra như thế nào.

Trong các bài viết trước đây vài lần Vân Anh ghi rõ rằng: “Trung Cộng đã nằm rất sâu và rất lâu trong đất nước Việt Nam; cũng như trong thành phần lãnh đạo nồng cốt của đảng Cộng Sản Việt Nam”, cho nên không bao giờ có chuyện bọn Việt Gian bán nước lại trở mặt hay xé rào phản bội ông chủ đỏ Trung Cộng của chúng để chạy theo điều chúng gọi là: “bả văn minh Tây phương”. Người viết nghĩ rằng Mỹ và phương Tây cũng đã thừa hiểu điều này, nhưng vì họ quen “tính toán theo quyền lợi”, nên các nước Tây phương vẫn nhắm mắt làm ngơ trước sự oan khổ đau thương của cả dân tộc Việt Nam đang bị cai trị bởi bàn tay hà khắc của bọn cầm quyền Cộng sản.

Thưa quý đọc giả! Dưới đây Vân Anh xin đưa ra một ví dụ nho nhỏ để quý độc giả lượng định, Đúng; Sai !. cho riêng mình.

Nước Lục Sâm Bảo (Luxembourg) chỉ vỏn vẹn có khoản 509,000 (Năm Trăm Lẻ Chín Nghìn, dân số chưa bằng một tỉnh nhỏ của Việt Nam Hiện nay) dân. Nhưng bất hạnh thay cho dân Việt! “chính quyền” “lục xâm bảo” họ đã viện lẽ thiết lập “bang giao”, mở “đại sứ quán”, ký kết “hiệp ước chiến lược” để làm nhiệm vụ “Bang Giao”, hầu giúp cho bọn Việt Gian Cộng sản tẩu tán tài sản một cách chính danh!. Như vậy thì ... “bang giao” cũng làm cho “đôi bên hay nhiều bên cùng có lợi”. Nếu phải đặt câu hỏi thì: Nước Việt Nam đã có “chiến lược” gì với các quốc gia xa xôi, lạnh lẽo nhưng chỉ có “vài trăm nghìn dân”?!. Nếu phải giao thương để “buôn bán”, thì các anh buôn những gì?! Và các anh bán những gì?!. Hỏi tức đã trả lời!.

Nhiều năm qua “người ta” vẫn thấy tập đoàn Cộng sản cũng như các tập đoàn tư bản “phương Tây”! Họ đã tự xem đất nước Việt Nam là của riêng họ. Có lẽ vì nghĩ như vậy nên họ ngang nhiên đạp lên các “công ước quốc tế” do chính họ làm ra và đã đặt bút ký kết. Họ bất chấp người dân Việt Nam và thế giới đang nghĩ gì về họ. Và người viết có thể đưa ra một “danh sách” những “nước” được gọi là “quốc gia” với dân số chỉ chừng vài trăm nghìn cho đến vài triệu như: Luxembourg, Belgium, Austria, Norway, Finland, Denmark ..v.v.. Tóm lại cũng chỉ có những kẻ gian ngoa hưởng lợi trên xương máu của hàng nhiều triệu người dân Việt Nam khốn khổ, khốn nạn. “Nhưng chuyện đời là chuyện dài lâu, nên những cuộc vui đâu có dễ thâu đêm”. Chúng ta chờ xem họ “vui thâu đêm” với nhau được bao lâu nửa!.

Năm 1175 quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn (1155 - 1227) thành lập và lãnh đạo lúc đó ông đã 20 tuổi, sau đó Mông Kha kế tiếp, đạo quân Mông Cổ chiếm gọn cả Trung Hoa, Đại Nga và Âu Châu như lấy đồ trong túi. Nhưng chỉ đến thế hệ thứ hai là Hốt Tất Liệt; thì Mông Cổ đã bị đồng hóa một cách âm thầm trong xã hội Hán tộc. Cuối thế kỷ thứ 14 nước Ðại Việt bắt đầu một giai đoạn suy vong, các vị vua cuối cùng nhà Trần nhu nhược, yếu hèn lại chểnh mảng việc chính sự. Từ những chiến công hiển hách đại thắng quân Nguyên (Mông Cổ) của Đức Thánh Trần Hưng Ðạo, Thượng Tướng Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư ở đầu thế kỷ thứ 13, đến cuối thế kỷ thứ 14, nhà Trần đã mất đi năng lực quốc phòng để gìn giữ bờ cõi, biên cương. Thời đó dân tình đói khổ, giặc giả nổi lên khắp nơi, Chiêm Thành là một nước nhỏ bé ở phía Nam, dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga cũng đã thừa cơ hội đang lúc nhà Trần suy vong; đem quân vượt biên giới phía Bắc tấn công cướp bóc tàn phá kinh đô Thăng Long, vào Thăng Long quân Chiêm Thành thỏa chí hãm hiếp, đốt phá và giết chóc (số lớn thanh nữ và phụ nữ bị hãm hiếp và bị giết sạch), đó là vào những năm Đinh Tỵ 1377, Mậu Ngọ 1378, Canh Thân 1380. Trong giai đoạn nhiễu nhương của đất nước, thì Lê Quý Ly xuất hiện như một “cứu tinh” để cứu vãn nhà Trần. Ông đã giúp triều đình nhà Trần củng cố lại triều chính và quân đội. Sau những trận phục kích thủy quân Ðại Việt đã giết được Chế Bồng Nga, chấm dứt được họa cướp bóc của Chiêm Thành ở phương Nam. Nhưng cứu tinh Quý Ly đã “hóa phép” trở thành “Hồ Ly” bức tử con cháu nhà Trần, Quý Ly là con người khôn ngoan và nhiều mưu lược cùng với quyền lực trong tay, Quý Ly cùng với người con trưởng là Hồ Nguyên Trừng đã chấm dứt cơ nghiệp nhà Trần và mở ra triều đại nhà Hồ.

Tháng hai năm Canh Thìn (1400) Lê Quý Ly cướp ngôi của cháu ngoại là Thiếu Đế Án, lên ngôi, Quý Ly đổi họ Lê ra họ Hồ lấy hiệu là Thành Nguyên (Thành Nguyên để hợp với Nguyên-Minh, Thành Tổ bên Tàu). Hồ Quý Ly là một con người nhiều biệt tài, biết quyền biến và đầy tham vọng. Nhưng sau đó họ Hồ phải “dâng sổ đồ quì gối chốn biên cương”, trước tham vọng to lớn hơn của Yên Vương Lệ (Chu Lệ hay Chu Đệ được anh là Chu Nguyên Chương - Minh Thái Tổ - phong làm vua nước Yên, nên gọi Lệ là “Yên Vương Lệ”) ở phương Bắc. Yên Vương Lệ một con người có tài, đảm lược, nhiều thủ đoạn, nhưng rất tàn bạo, cùng thời gian Quý Ly cướp ngôi của cháu Ngoại là Thiếu Đế Án. Thì bên Trung Hoa, Yên Vương Lệ cũng vừa mới cướp ngôi người cháu là Minh Huệ Đế ở Kim Lăng (Nam Kinh bây giờ) Trung Hoa. Yên Vương Lệ lên ngôi năm 1402 lấy hiệu là Minh Thành Tổ.

Dưới triều đại của Minh Thành Tổ, nhà Minh được sử sách Đông, Tây ghi nhận là một triều đại cực thịnh của Trung Hoa với binh hùng tướng mạnh, những người được coi là ưu tú bậc nhất của triều đại nhà Minh như: Chu Năng, Lý An, Mã Kỳ, Trịnh Hòa, Phương Chính, Trần Hạp (Hợp), Liễu Thăng, Trương Phụ, Hoàng Phúc, Vương Thông, Trần Trí, Mã Anh, Sơn Thọ, Vương An Lão, Mộc Thạnh, Lương Minh, Lý Khánh, Thôi Tụ, Thái Phúc, Lý Lượng, Lưu Thanh ..v..v... và hàng trăm chiến tướng khác không kể hết ra đây được. Đáng kể nhất là Liễu Thăng một tướng trẻ, nhưng có tài và đầy mưu lược. Dưới sự lãnh đạo của Minh Thành Tổ, nhà Minh đã chiếm trọn Trung Hoa và tiêu diệt các nước nhỏ chung quanh thu giang sơn vễ một mối, sau đó ông quay sang mở rộng biên cương về phía Nam. Nhân có một số quan lại nhà Trần (bọn Trần Thiêm Bình) chạy qua Kim Lăng dâng sớ tố cáo nhà Hồ (Quý Ly) cướp ngôi nhà Trần. Đây là cơ hội ngàn vàng cho Minh Thành Tổ, ông liền dựng lên chiêu bài “Diệt Hồ phù Trần”, để có cớ tung quân sang chiếm lĩnh nước Việt. Tháng Tư năm Bính Tuất (1406) Minh Thành Tổ sai hai tướng Hàn Quan và Hoàng Trung đem quân đánh Đại Việt. Mở đầu cho cuộc “Chinh Nam” Hoàng Trung và Hàn Quan thua trận phải giao nộp bọn Trần Thiêm Bình và xin đường trở về Tàu. Thấy bọn Hàn Quan và Hoàng Trung thua trận trở về Minh Thành Tổ giận dữ bằng mọi cách dùng toàn lực quyết đánh để chiếm lĩnh nước Việt.

Trong lịch sử của người Trung Hoa chưa có cuộc chiến nào mà họ đã phải huy động cả hai Quốc Công, ba Thượng Thư và một đoàn Thành, Hầu, Bá như cuộc viễn chinh của nhà Minh khi chúng xâm lăng nước Việt. Cuối năm Bính Tuất Minh Thành Tổ chỉ đạo một đoàn quân hùng hậu gồm: Thành Quốc Công Chu Năng được phong làm “Chinh Di” Ðại Tướng Quân, Tân Thành hầu Trương Phụ làm “Chinh Di” Hữu Phó Tướng Quân, Tây Thành Hầu Mộc Thạnh làm “Chinh Di” Tả Phó tướng quân, Phong Thành Hầu Lý Bân, Vân Dương Bá Trần Húc làm Tả, Hữu Tham Tướng Quân ..v..v.., thống lĩnh hơn 80 vạn quân chia làm hai cánh tiến đánh nước ta, khi quân Minh tiến đến Long Châu thì Chu Năng bị bịnh chết, Trương Phụ lên thay. Thực chất của chiến dịch chinh “Di” Nam với hơn 800 ngàn quân (chưa kể bọn Phu binh và gia đình của chúng có thể lên đến vài trăm nghìn) dưới chiêu bài “Diệt Hồ phù Trần” của nhà Minh, là cuộc chiến tranh xâm lược đi liền với một cuộc di dân vĩ đại, mà Minh Thành Tổ muốn thôn tính phương Nam một lần cho gọn, để xóa bỏ cái “tàn dư” của nòi giống Bách Việt là “bọn Nam Di ngoan cố” luôn luôn là cái gai trước mắt và đã thách đố văn hóa với nòi Hán từ ngàn xưa đến nay. Minh Thành Tổ muốn xóa hẳn Ðại Việt để nước Việt trở thành quận huyện của Trung Hoa như Ngô Việt, Mân Việt trước đây. Do đó, cuộc “chinh Nam” lần nầy không phải chỉ là một cuộc viễn chinh quân sự, mà Minh Thành Tổ đã phát động cuộc chiến tranh “xâm lăng để đồng hóa” dân Việt qua tổng hợp về nhiều mặt: Quân sự, Kinh tế, Văn hóa và Chủng tộc, chủ ý là xóa hẳn nòi giống Việt.

Trương Phụ dưới sự chỉ đạo của Yên Vương Lệ tức Minh Thành Tổ đã xua đoàn quân hơn 800 ngàn (800.000) sang xâm lăng nước Việt. Bọn quân đội và phu binh này có tác dụng xóa hẳn dòng máu của dân Việt ở phương Nam, thay đổi nếp sống và văn hóa Việt để đồng hóa dân Việt vào dân Tàu. Trên mặt trận tư tưởng với khẩu hiệu “Diệt Hồ phù Trần” của Minh Thành Tổ, đã đánh trúng vào nhược điểm của “chính quyền” Hồ Quí Ly. Chiêu (bài) “Công Tâm” nầy gây giao động mạnh mẽ trong dân chúng và chi phối tâm lý cực mạnh trong ý chí chống xâm lăng của dân quân Ðại Việt thời đó. Danh không chính thì ngôn không thuận, không có chính danh, Hồ Quí Ly mất đi hào quang lẫn đạo đức để lãnh đạo đất nước, lãnh đạo công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Đáng kể nhất là mặt trận văn hóa Hồ Quý Ly (cũng như bọn cầm quyền Cộng sản bây giờ) đã thất nhân tâm nên không được lòng dân, thuận lòng trời. Vì vậy họ Hồ đã thất bại trên mặt trận chính trị trước khi mặt trận quân sự bị sụp đổ. Đến cuối cùng cha con Hồ Quý Ly phải đem sổ đồ của quốc gia quì nơi Ải Nam Quan dâng cho Trương Phụ, mặc dù chưa có một cuộc giao tranh quân sự nào đáng kể xảy ra. Sự hèn yếu nhu nhược của họ Hồ trong công cuộc “lãnh đạo” chiến đấu chống quân xâm lược nhà Minh, một lần nửa đã đưa toàn dân Việt vào vòng nô lệ Bắc phương.

Không phải đến đời Yên Vương Lệ, Minh Thành Tổ mới nghĩ chuyện xâm lăng và xóa nhòa văn hóa Bách Việt. Trước đó nhiều thế kỷ Bắc phương đã nhiều lần muốn thôn tính và xóa hẳn các dấu vết Văn Hóa của Bách Việt, điển hình là Khổng Khâu hiệu Khổng Tử (551- 479 trước Tây lịch) ông là người san định Ngũ Kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc), từ cuối đời Xuân Thu ở Tàu để cướp văn hóa Bách Việt, họ đã tìm trăm mưu nghìn kế hòng hủy diệt văn hóa và lịch sử phương Nam, để làm ra cái mới riêng cho họ và cho phổ biến trong dân chúng. Giống Hán thì họ biên chép lại, sắp đặt lại cho có hệ thống để xóa nhòa những dấu vết cũ của giống Bách Việt gồm nhiều bộ tộc Việt như: Lạc Việt, Mân Việt, Đông Việt, U Việt, Nam Việt, (Việt, Di, Khương ..v.v..) rồi bảo rằng: “Các giống ấy chỉ là giống man di mọi rợ”. Người đại diện cho công việc ấy không ai khác hơn là Khổng Tử như đã nói ở trên, nên “học thuyết” của Khổng Tử đã trái ngược với học thuyết của Lão Tử ở phương Nam. Về chính trị thì họ Khổng chủ trương “Hưng Hoa Diệt Di”. Lối nhân nghĩa và đạo đức giả tạo của Khổng Tử là Đồng Hóa và Diệt Chủng các giống dân khác, họ dùng nhân nghĩa ở đầu môi để thay việc binh đao (“đạo nghĩa gớm cho quân lợm khẩu” - trích Đạo Trường Ngâm), lối đạo đức ăn cắp của họ Khổng thì như câu sách Nho Tàu rằng: “Thoái nhi tu đức nhi hậu miêu tộc từ suy dao, đắc đạo khả dĩ thứ nhân”, nghĩa là lùi không đánh, giả (bộ) lấy “đạo đức” mà đồng hóa họ làm dân mình. Đây là cái thủ đoạn vô cùng thâm sâu của họ Khổng, đấy cũng là một lối đế quốc về đời nhà Chu, nên thời ấy Mặc Tử mới đề xướng thuyết Kiêm Ái để chống lại lối giả nhân giả nghĩa của Khổng tử.

Tóm lại Khổng Tử cứ lập lại câu: “thuật nhi bất tác” (“Ta không sáng tác, ta chỉ học đạo của người xưa” - xem Luận Ngữ, “Ngô thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”). Như vậy đã quá rõ ràng họ Khổng chỉ đi lấy của người làm của mình nên ở đây không có gì để chúng ta lạm bàn thêm nửa.

Những việc như trên cho chúng ta thấy người Tàu đã có cái “bệnh gia truyền” là cố ý xóa nhòa văn hóa Bách Việt một cách có hệ thống từ xa xưa cho đến thời Tôn Văn (Tôn Dật Tiên) và kéo dài cho đến nay. Thế hệ của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào bây giờ cũng không đi ra ngoài sự chỉ giáo của Khổng tử, là: “tiêu diệt và đồng hóa người Việt thành người Tàu, tìm mọi cách xóa hết văn hóa của dân Việt”. Nhưng lạ thay văn hóa Bách Việt chúng ta không bao giờ bị xóa, mà ngược lại còn được lưu truyền lại hay biến hóa một cách độc đáo và tồn tại cho đến ngày hôm nay. Xét cho cùng thì thông thường khi một dân tộc xâm lăng và cai trị một dân tộc khác, có cùng một vóc dáng, có cùng một màu da và dân số đông hơn, thì chỉ trong vòng 50 năm, dân tộc bị trị phải bị đồng hóa và tiêu diệt. Nhưng như chúng ta đã biết dưới sự đô hộ hà khắc và tàn bạo của người Tàu trong hơn 1000 năm đó, dân tộc Việt (Bách Việt) đã không bị diệt vong mà vẫn hiên ngang tồn tại, để đến ngày hôm nay lại có cơ hợi phục hưng và phục hoạt lại đất nước kể từ đầu thế kỷ 21 này trở đi.

1, 2, 3

pay per click advertising

Weblinks :

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

free counters
un compteur pour votre site