lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Hồ Sơ Chủ Quyền Của Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam

...

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

...

Nguyên Tử Của Việt Nam Và Quốc Tế

...

Tin Tức Thời Sự Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Thư Tín

...

 

Tin Tức Thời Sự - Lịch Sử Việt Nam

Ma Thuật Của Bọn Cuồng Sát

30/04/1975

TQLC LÊ CÔNG TRUYỀN (Ông Lê Công Truyền nguyên là Giáo sư Học viện QGHC Saigon).

KBC 3331

Tháng 3 năm 2005, 142 đồng hương hiện định cư tại Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi đã tổ chức “Chuyến Đi Về Bến Tự Do 2005” để trở lại thăm Pilau Bidong thuộc Liên bang Mả Lai Á và Galang thuộc Quần Đảo Nam Dương.  Phái đoàn 142 người nói đây đã dựng “Bia Đài Tri Ân và Tưởng Niệm” tại hai Trại Tị Nạn để ghi ơn các cá nhơn, các tổ chức và các quốc gia đã tận lực giúp đở thuyền nhân đồng thời để tưởng niệm thuyền nhân qua đời trên hai đảo và bỏ mình trong những chuyến vượt trùng dương trốn chạy chế độ cộng sản.  Liền sau đó, Hà Nội phản ứng bằng cách vận động với hai chánh phủ liên hệ để phá bỏ các Bia Đài. Tiếc thay, các quốc gia liên hệ đã thỏa mãn cuồng vọng vô thần và phi nhân của vgcs.

Bây giờ, đất nước sắp rơi vào nanh vuốt của kẻ thù truyền kiếp phương bắc:

- Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã bị Hồ Chí Minh dâng cho Mao Trạch Đông vào năm 1958 để mua chịu vũ khí hiện đại nhằm tấn chiếm Miền Nam; trên 700 cây số vuông dọc biên giới và trên 12 ngàn cây số vuông hải phận đã bị vgcs dâng cho Trung cộng vào cuối năm 1999 và năm 2000;

- Những cao điểm chiến lược dọc biên giới đã bị Tàu phù chiếm đóng trong hai trận chiến 1979 và 1984.

- Cao nguyên Trung Phần đã bị csVN dâng cho Trung cộng để bọn này thiết lập căn cứ chiến lược hầu trấn áp, thôn tính không những các quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương mà còn cả  Đông Nam Á nữa.

- China Town đã hoàn thành tại Lạng Sơn và Bình Dương.  China Town ở Bình Dương chúng đặt tên là Đông Đô Đại Phố. Rồi đây sẽ có Tây Đô Đại Phố tại Cần Thơ, Trung Đô Đại Phố tại Đà Nẳng, Bắc Đô Đại Phố tại Hà Nội v.v…

- Rừng trên 16 tỉnh Miền Bắc cũng bị vc cho tc thuê 50 năm.  Trong vùng này đại đa số là lính Tàu phù ngụy trang công nhân;

- Các “Làng Tàu Phù” đã, đang và sẽ mọc lên như nấm trên khắp ba Miền Đất Nước.  Các “Làng Tàu Phù” hầu như là nhượng địa của Tàu phù, trong đó bọn Tàu tự quản trị và thống thuộc các tỉnh bên Tàu theo phương thức “chị em kết nghĩa”; trong làng, dân là lính Tàu trá hình.  Đến một lúc nào đó, chúng sẽ treo một tấm biểng ở cổng làng: “Ố Nàm Dành Mụ Nhập”.  Và khi cần, những “Làng Tàu Phù” sẽ là những “con ngựa Thành Troie”!  Trong tiểu thuyết “Chú Tư Cầu”, tác giả Lê Xuyên đã tả cảnh “Thổ dậy” tại Trà vinh, thật khiếo đảm: dân Miên từ các Sóc Miên (làng người Miên) tràn ra khỏi các “sóc” gặp người Việt Nam thì “cáp duồn”, chặt đầu.  Sự kiện này sẽ tái diễn do các cư dân trong Làng Tàu phù tràn ra đả thương, sát hại người Việt tương tự Tàu phù đã làm tại Thanh hóa.; sự kiện  ánh đậpun6’Ừ cÂUch

Hiệp định Paris năm 1973, do Kissinger và Lê Đức Thọ dàn dựng, đã chấp thuận cho bọn VC đặt không biết bao nhiêu “Ngựa Thành Troỉe” tại Miền Nam và Miền Nam đã sụp đỏ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Giờ đây, chính bọn việt-gian cộng-sản - vì ngu muội, vì hèn nhát, vì ham tiền - đã chấp thuận cho Trung-cộng đặt những “Con Ngựa Thành Troie” trên khắp nẽo đường đất nước và đất nước sẽ rơi vào nanh vuốt của bọn tàu-phù lúc nào chúng muốn!Bọn vgcs chẳng lẽ không biết câu: “Nhân tham tài tắc tử, điểu tham thực tắc vong”.   Chúng có “tử” thì mặc xác chúng nhưng cái “tham tài” của chúng đưa đến hệ lụy là cả Dân Tộc “tắc tử”!

Trước hiểm họa mất nước gần kề, CSVN không đặt trọng tâm đối phó bằng cách trở về với Dân Tộc mà lại đàn áp Dân Tộc và gởi công hàm ngoại giao tháng 7 năm 2009 vận động chánh phủ Nam Dương dẹp bỏ các di tích tị nạn (Nghĩa trang, Chùa chiền, Nhà thờ, Miểu Ba Cô…) trên đảo Galang và tiếp tục ngụp lặn trong biển trầm luân “xã hội chủ nghĩa” không bến bờ! CSVN vô thần không hề biết lời Phật dạy: “KHỔ HẢI VÔ BIÊN, HỒI ĐẦU THỊ NGẠN” (Biển khổ minh mông, quay đầu thấy bến).  Tại sao mãi mãi lìa xa Bến Bờ Dân Tộc để phụng thờ “16 chữ vàng” vô nghĩa và lừa bịp? (“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng đến tương lai”).  Và tiếp tục con đường “Bác đi”: Hèn với giặc, ác với dân? VGCS tiếp tục đàn áp thô bạo học sinh, sinh viên và đồng bào biểu tình chống TC cưỡng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, trù dập các nhà dân chủ trong nước, thi hành nghị quyết 36 để tạo rối loạn trong Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản.

Tháng 7 năm 2005, một người tên Minh Thúy đã gởi điện thư vào các diễn đàn xuyên tạc lý do khiến đồng bào chúng ta liều chết trốn chạy chế độ cộng sản: “Mọi người trên thế giới đừng quên rằng hàng ngàn người Việt Nam ra đi bị chết chìm trên biển là do mắc mưu lừa đảo, tuyên truyền của Mỹ khi chúng rút chạy khỏi Việt Nam.  Người Mỹ nói dối rằng VC sẽ tắm máu khi chúng vào Saigon.  Nhưng thực tế thì không phải như vậy” (sic). 

Sau đây xin có vài suy nghĩ về thái độ của CSVN đối với các Bia Đài Tưởng Niệm, Trại Tị Nạn Galang và  lý do vượt biển của đồng bào chúng ta.

A. CSVN và Các Bia Đài Tưởng Niệm và Trại Tị Nạn Galang

Thật ra, không ai ngạc nhiên về cách ứng xử của CSVN trước các Bia Đài Tưởng Niệm và các Trại Tị Nạn.  Tại sao? Vì CS mắc phải hai chứng bịnh nan y: hận thù và sợ hãi!

Trước nhiều hành động của CSVN mà người có chút lương tri không bao giờ dám làm, người ta phải tự hỏi: ‘Tại sao phải làm như thế?” Tại sao sau khi chiếm xong Tổng Y Viện Cộng Hòa, cán binh cộng sản tống xuất các thương bệnh binh VNCH đang ở trong tình trạng nữa sống, nửa chết? Tại sao “tập trung cải tạo” cả các vị sĩ quan mù cả đôi mắt hoặc cụt cả một chân? Tại sao tàn phá các Nghĩa Trang Quân Đội tại địa phương? Tại sao VC Nguyễn Tấn Dũng cải danh Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa thành  “Nghĩa Địa Bình An” và chuyển giao cho tỉnh Bình Dương “quản lý để phát triển kinh tế và xã hội”?  Phát triển cái giống gì trên một nghĩa trang có hàng vạn phần mộ ngoài việc bán nghĩa trang cho Tàu phù để bọn này xây xí nghiệp, cao ốc v.v…

Tại sao lại xua trẻ vị thành niên Miền Nam ra chiến trường để làm bia đỡ đạn cho bộ đội CS? Các hành động ác nhơn thất đức này chỉ có thể được giải thích bằng hai chữ “trả thù”: CS trả thù người chết lẫn người sống và trả thù luôn cả những ngưòi đang hấp hối vì tất cả những vị này đã từng hy sinh hạnh phúc đời mình để bảo vệ chánh nghĩa quốc gia, chống tà thuyết vô thần CS.

Trở lại với các Bia Đài tại các Trại Tị Nạn. Các tấm bia ấy không hề lên án tội ác của chế độ cộng sản đối với Dân Tộc mà chỉ ghi những hàng chữ tưởng niệm đồngbào đã qua đời trên đảo và chết thảm trên biển cùng ghi ơn các tổ chức quốc tế và chánh phủ cùng công dân các quốc gia đã tận tình giúp đở người Việt tị nạn CS.  Thế tại sao Hà Nội lại làm áp lực để các chánh phủ liên hệ triệt hạ các Bia Đài?  Tại sao lại vận động chánh phủ Nam Dương xóa bỏ mọi di tích tị nạn trên đảo Galang? Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi này bằng bốn chữ: “trả thù” và “sợ hải”:

- Hà Nội trả thù thuyền nhân vì thuyền nhân đã “bỏ phiếu bằng thuyền” không chấp nhận chế độ cộng sản vô thần đồng thời vạch mặt bọn cầm quyền Hà Nội để cho cả thế giới thấy sự nham nhở, tàn bạo, vô luân, phi nhân tính của chúng.

- Hà Nội sợ công luận thế giới lên án nên muốn xóa bỏ mọi chứng tích về sự bạo tàn, vô nhơn đạo của chúng mà các Bia Đài và các Trại Tị Nạn là những chứng tích hùng hồn nhứt! Triệt hạ các Bia Đài, dẹp bỏ các di tích tại các Trại Tị Nạn, Hà Nội đã thỏa mản được bản tính hận thù và nghĩ rằng chúng đã triệt tiêu được các chứng tích về tội ác của chúng!

Chúng đã lầm to!

Việc CSVN làm áp lực để chánh phủ các quốc gia liên hệ triệt hạ các Bia Đài và vận động Chánh phủ Nam Dương xóa sạch các di tích tại Trại Tị Nạn Galang đã tạo nên một ngọn “sống thần căm phẩn” không những trong Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản mà cả trong đại khối đồng bào trong nước. Đối với công luận thế giới, kể cả công dân của hai quốc gia liên hệ, phản ứng nói trên của Hà Nội là phản ứng xuẩn động của bọn cường đồ, đáng bị khinh miệt và nguyền rủa!

Chuốc lấy những hậu quả tai hại nói trên, Hà Nội cũng không triệt tiêu được chứng tích về tội ác của chúng. Chứng tích đó không những được nằm trên bia đá, tồn động tại các Trại Tị Nạn mà còn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. 

Đó là “bia miệng”.  “Bia miệng” thì không thể nào xóa bỏ hoặc phá hủy được:

“Trăm năm bia đá cũng mòn
“Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

Các Bia Đài, các Trại Tị Nạn có thể còn hoặc không còn trên các đảo Galang và Pilau Bidong, nhưng chắc chắn chúng sẽ mãi mãi nằm trong lòng người dân Việt thuộc mọi thế hệ vì tội ác của csHN đã trở thành những sự kiện lịch sử.  Nếu csVN có chút dũng khí, nhơn dịp 37 năm nhìn lại, gởi công hàm ngoại giao cám ơn chánh phủ và công dân các quốc gia đã tận lực cứu giúp đồng bào và chỉ thị đại sứ của họ tại Mã Lai và Nam Dương đến đặt vòng hoa tưởng niệm và cúi đầu trước các Bia Đài để bày tỏ lòng sám hối của chế độ và xin các quốc gia liên hệ cho phép chúng trùng tu các Trại Tị Nạn thì, theo chúng tôi nghĩ, họ lại có thể phỉnh lừa những người nhẹ dạ còn tin rằng họ thật sự ân hận về sự tàn bạo của họ! Tiếc rằng họ không có chút dũng khí đó; chúng chỉ có can đảm ra lịnh cho công an biên phòng rượt theo và xả súng máy để “diệt gọn” các con tàu bất hạnh chở những ngưòi dân bạc phước đang tìm cách lánh xa ngục tù cộng sản! Bây giờ họ lại hèn hạ, đốn mạt van xin chánh phủ Nam Dương a tòng với họ xóa bỏ mọi di tích tị nạn trên đảo Galang.  Nếu CSVN có tài ngoại giao “ưu việt” thì hãy vận động với chánh quyền Hoa Kỳ dẹp bỏ Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản Tại Thủ Đô Hoa Thạnh Đốn, Tượng Đài Thuyền Nhân tại Westminster, vận động với chánh phủ Canada dẹp bỏ Tượng Mẹ Bồng Con Trốn Chạy Chế Độ Cộng Sản tại Ottawa và vận động chánh phủ nước Đức đập phá Tượng Đài Tị nạn Hamburg v…v…

B. Lý Do Vượt Biển Của Đồng Bào Tị Nạn Cộng sản.

Sau khi tạo áp lực để chánh phủ hai quốc gia liên hệ phá bỏ Bia Đài, Hà Nội đi bước kế tiếp nhằm van xin chánh phủ Nam Dương xóa bỏ mọi di tích tại Trại Tị Nạn Galang và sai cán bộ của họ xuyên tạc lý do vượt biển đích thực của đồng bào: sự tàn bạo của chế độ.

Theo thông tấn xã Bermana, từ năm 1978 đến năm 1990, có 245,133 thuyền nhân đã tới đảo Pilau Bidong. Ngoài ra, còn phải kể nhiều trăm ngàn đồng bào đã tới Nam Dương, Thái Lan, Úc Đại Lợi, Phi Luật Tân, Hongkong, Tân Gia ba... Mặt khác, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, khoảng 50% đồng bào vượt biển đã lấy đáy biển làm huyệt mộ.  Như vậy, đã có hàng trăm ngàn - chớ không phải chỉ có hàng ngàn - “người Việt Nam ra đi bị chết chìm trên biển”!

Tại saođồng bào phải bỏ xứ mà đi để chết thảm trên biển cả?

Đồng bào Miền Bắc liều chết trốn chạy “thiên đàng xã nghĩa” qua ngả Hongkong có bị “mắc mưu lừa đảo tuyên truyền của Mỹ khi chúng rút chạy khỏi Việt Nam” không? Họ có sợ bị “tắm máu khi VC vào Saigon” không?

Dĩ nhiên là không bởi lẽ không có Mỹ ở Miền Bắc và không còn ai sợ tắm máu nữa vì còn máu đâu để mà tắm sau trên mấy mươi năm đất Bắc bị đảng CS thống trị với nào là “cải cách ruộng đất”, rồi lại “chánh sách sửa sai”, nào là “đánh tư sản mại bản”, nào là “Nhân Văn Giai Phẩm”, nào là “Quỳnh Lưu”, nào là “chỉnh phong”, nào là “cán bộ tập kết phá bót cảnh sát Bờ Hồ”, nào là “Học sinh Nam bộ khởi loạn ở Ngã Tư Sở” và biết bao là máu và nước mắt đã đổ trong trại Đầm Đùn và các trại tù khổ sai khác!

Tại Miền Nam, theo thông tấn xã Bermana, đồng bào ồ ạt vượt biển trong thời khoảng từ 1978 đến 1990. Trong khoảng thời gian nói đây, Mỹ nào còn ở Việt Nam để mà “lừa đảo tuyên truyền”! Năm 1978 và các năm kế tiếp, không phải vì sợ tắm máu mà đồng bào vượt biển bởi lẽ CSVN đã hoàn tất “nghiệp vụ tắm máu”: bao nhiêu doanh nhân (Tư sản mại bản) đã bị sát hại? Mấy trăm ngàn quân cán chánh VNCH (QCC) đã bỏ mình trong vùng rừng núi Bắc Việt? Bao nhiêu ngàn vợ con QCC đã gục ngã tại các “vùng kinh tế mới”? Bao nhiêu ngàn con cái của QCC đã làm bia đở đạn cho cán binh CS ở biên thùy phía bắc và tại biên giới phương nam?

Không bị “Mỹ lừa đảo, tuyên truyền’, không sợ “tắm máu”, thế thì điều gì đã đẩy đồng bào ra biển cả để chết thảm? Xin thưa: chế độ cộng sản! Người viết xin nêu một sự kiện lịch sử để thấy rằng người Việt Nam lúc nào cũng có thể vượt biển hoặc lìa xa nơi chôn nhau cắt rốn để tìm sanh lộ trong tử lộ.

Vượt biên hay không vượt biên, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sức chịu đựng của đồng bào dưới chế độ họ đang sống.

Từ ngàn xưa, tiền nhân chúng ta đã từng vượt biển để tránh bị tiêu diệt.  Đó là trường hợp của hậu duệ nhà Lý. Trước chánh sách “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc” của Trần Thủ Độ, con cháu nhà Lý đã phải liều chết vượt biển sang Triều Tiên tị nạn. Ở lại chắc phải  chết; liều mạng ra đi may ra có thể sống còn; thế là tiền nhân chúng ta quyết định ra đi!

THẾ NHƯNG:

- Dưới thời Bắc Thuộc, ngoài những hình phạt dã man, bọn Thái thú Tàu còn khai thác sanh mạng của người dân để thủ lợi.  Thế nhưng người dân không hề vượt biển! Tại sao?  Vì, theo tôi nghĩ, còn có thể chịu đựng được.

- Dưới thời Pháp Thuộc gần cả trăm năm, thực dân đã đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa của người quốc gia yêu nước. Thế nhưng người dân không hề vượt biển! Tại sao?  Vì, theo tôi nghĩ, còn có thể chịu đựng được.

- Dưới thời Nhựt chiếm đóng, bọn quân phiệt áp dụng những hình phạt cực độc đối với người Việt.  Thế nhưng người dân không hề vượt biển! Tại sao?  Vì, theo tôi nghĩ, còn có thể chịu đựng được.

- Trước nạn đói Năm Ất Dậu, hàng triệu người chết, nhưng đồng bào Miền Bắc chấp nhận chết nơi sinh quán, gần mồ mả tổ tiên thay vì di-thực.  Xin mở dấu ngoặc để ghi thêm nguyên nhân của nạn đói năm Ất Dậu. Ngoài Nhựt và Pháp, nguyên nhân thứ ba là HCM; tên tội đồ này hạ lịnh cho đồng đảng gom hết lúa gạo đem lên Tân Trào, Tuyên Quang để nuôi quân và chiêu dụ thanh thiếu niên lên đó gia nhập bộ đội.

THẾ TẠI SAO:

Sau khi Việt minh Cộng Sản tiếp thu Miền Bắc, hàng triệu đồng bào đã gạt lệ rời bỏ quê hương vào Miền Nam trốn chạy chế độ cộng sản?

Sau khi CS cưỡng chiếm Miền Nam, hàng triệu đồng bào đã liều chết bỏ nước ra đi với tâm niệm: Thà làm mồi cho thú dữ, thà bỏ thây nơi rừng sâu núi thẫm, thà lấy biển cả làm huyệt mộ còn hơn phải sống dưới chế độ cộng sản để trở thành những người tù trừ bị, những tử tội dự khuyết?

Trong thời chiến trước năm 1975, nơi nào có bóng cờ máu của “đảng”, đồng bào liều chết trốn chạy về hướng Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa?

XIN TRẢ LỜI BA CÂU HỎI NÊU TRÊN:

Tại vì chế độ cộng sản bạo tàn, hà khắc, sâu độc, nham hiểm, vô luân, ác nhơn, thất đức gấp vạn lần bọn Tàu, bọn Pháp, bọn Nhựt.  Toàn dân là những người tù dự khuyết, quần chúng là thành phần tử tội trừ bị.  Chính bọn công an còn lén lút sơn trên vách nhà tập thể của chúng tại trại tù Z30A ở Long Khánh 8 chữ: “Tù trong là ngụy, tù ngoài là ta!” mà một người bạn cựu tù nhân chánh trị (HO) “trại viên” đã nhận lịnh chỉ huy trại kín đáo xóa 8 chữ “cực kỳ phản động” nói trên.                                   

Nói khác đi, nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một nhà tù “vĩ đại”, trong đó có hằng hà sa số nhà tù nhỏ được xây cất kiên cố trên khắp ba Miền đất nước!!!

Những người cộng sản vô thần trong Bắc Bộ Phủ tin rằng không có thiên đường địa ngục chi cả, chỉ có “thiên đường cộng sản” mà đồng bào chúng ta đang trốn chạy và không có một thế giới nào khác, ngoài “thế giới đại đồng” mà họ dùng xương máu đồng bào chúng ta để góp phần xây dựng! Đối với họ, chết là hết; sau cái chết là một khoảng trống vô tận, minh mông, mịt mù: “Après la mort, c’est le néant”.  Với “đức tin” đó và với câu tâm niệm “cứu cánh biện minh cho phương tiện” (La fin justifie les moyens), khi còn tại thế, họ làm mọi hành động, mà người hữu thần cho là ác nhơn thất đức, để thỏa mãn dục vọng của họ: trả thù-báo oán, giết người-cướp của, diệt chồng-đoạt vợ.  Họ không hề biết các thành ngữ “vô dục, cực lạc”, “tri túc thường lạc”. 

Trong trường hợp các Bia Đài Tưởng Niệm và các Trại Tị Nạn, cứu cánh là che dấu tội ác của họ đối với dân tộc Việt Nam nói chung và đối với thuyền nhân nói riêng; phương tiện xử dụng là xuyên tạc lý do vượt biển của đồng bào chúng ta và vận động xóa bỏ các di tích trong các Trại Tị Nạn  - một sự vận động tương tự như phá đình, phá miểu, phá nơi thờ phượng của các tôn giáo mà họ đã, đang và sẽ tiếp tục phá nếu chế độ cộng sản còn tồn tại. Cả hai phương tiện đều xúc phạm hương linh của thuyền nhân chết trên biển cả và qua đời trên hai Đảo. Nhưng cả hai phương tiện xử dụng đều tỏ ra vô hiệu vì như đã viết bên trên:

“Trăm năm bia đá cũng mòn, Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!”

Hồ Chí Minh  đã đưa con thuyền Việt Nam vào “biển khổ trầm luân xã hội chủ nghĩa” không bến bờ.  Nếu csvn tiếp tục ngụp lặn trong biển trầm luân ấy thì con thuyền Việt Nam sẽ trôi dạt vào bến bờ “Đại Hán”. 

Hãy quay về với Dân Tộc bằng cách: vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê, giải thể đảng csvn, xé bỏ Hiến pháp năm 1992, ném bỏ “16 chữ vàng” vô nghĩa để còn thấy bến bờ hầu tránh đại họa do bọn bành trướng Bắc kinh mang đến phủ trùm ĐẤT NƯỚC và DÂN TỘC.  Đức Phật đã dạy, mà người cộng sản vô thần làm sao biết được:“Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn”.

Lê Công Truyền
TQLC  - KBC 3331

pay per click advertising

Weblinks :

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

free counters
un compteur pour votre site