lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Hồ Sơ Chủ Quyền Của Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam

...

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

...

Nguyên Tử Của Việt Nam Và Quốc Tế

...

Tin Tức Thời Sự Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Thư Tín

...

 

Lịch Sử Việt Nam Cận Đại

Sau Ba Mươi Năm Quốc Hận, Tìm Hiểu Sự Thật Về Đường Mòn Hồ Chí Minh Trong Cuộc Chiến Đông Dương II (1955-1975)

1, 2

Mường Giang

Một năm sau ngày miền Nam bị cưởng chiếm, phái đoàn Bắc Việt do Trường Chinh đại diện và Ðảng Bộ Việt Cộng miền nam tức Mặt Trận Giải Phóng MN, dưới quyền Phạm Hùng, đã chính thức họp tại Sài Gòn, để khai tử cái Mặt Trận “ MA “, được Hà Nội dàn dựng và khai sinh từ ngày 20-12-1960, nhằm lường gạt dư luận thế giới và dân chúng trong nước, qua âm mưu thôn tính VNCH. Cũng từ đó (1976), cái gọi là con đường huyền thoại Hồ Chí Minh, tức đường mòn Trường Sơn với bí danh 559A, hành lang để Hà Nội chuyển tiếp liệu, quân dụng và người vào Nam, từ năm 1959 tới ngày 30-4-1975, cũng bị đảng nhận chìm trong quên lãng.

Bắt đầu từ năm 1989 tới 1991, đã có nhiều biến cố chính trị quan trọng xảy ra tại Ðông Âu. Ðó là việc các nước chư hầu, lần lượt từ bỏ xã hội chủ nghĩa, kéo theo sự sụp đổ và tan rã của Liên Bang Sô Viết. Ðể cứu đảng khi đã mất cái dù che của Nga, Việt Cộng lại ngả về Tàu, đồng thời mở khẩu đổi mới, trải thảm đỏ, mời Hoa Kỳ, Nhật và Tây Phương vào làm ăn buôn bán. Nhờ vậy lớp son phấn che kín bản mặt thật của đảng, dần hồi bị xói mòn, bởi các tệ trạng tham nhũng, cướp bóc nơi cửa quyền và nhất là sự kiện đảng công khai bán nước cho ngoại bang, hèn nhục để cho dân mình bị Tàu Cộng bắn giết trên biển mới xảy ra vào tháng 1-2005, đã làm cho cả nước không còn hãi sợ và tin Việt Cộng, kể cả một số không ít trí thức khoa bảng NamVN trước đây, từng tin đảng là chính nghĩa, làm cách mạng chỉ để giải phóng đất nước bị Mỹ-Ngụy kềm kẹp bóc lột.

Ðể bảo vệ đảng cũng như quyền lợi của chóp bu đang hồi tiến nhanh tiến mạnh, Hà Nội lai lùi một bước, quay về với chiến lược cũ rích năm nào. Ðó là dùng lịch sử để lường gạt đồng bào và việt kiều thêm lần nửa. Ðảng đem những huyền thoại trên trời dưới biển năm nao, ra hâm nóng lại tinh thần yêu nước là “ yêu nước xã hội chủ nghĩa “của cán bộ đảng viên, đang bị phân hoá lung lay niềm tin tới tận gốc, vì dành ăn, tranh quyền và ganh tị lẫn nhau bởi “ trâu cột ghét trâu ăn “.Ngoài ra, đảng cho trùng tu lại các di tích chiến tranh, như Ðịa đạo Vĩnh Mốc (Vĩnh Linh-Quảng Trị), Củ Chi (Hậu Nghĩa), cũng như tái tạo lại con đường mòn Hồ Chí Minh. Công tác trên vừa có tính cách xoa dịu tự ái của những đảng vỉên bộ đội già bị vắt chanh bỏ võ, sau khi tàn chinh chiến. Ðồng thời lần nữa lừa bịp cũng như móc túi bọn du khách ngoại quốc, trong đó có không ít Việt Kiều trí thức Miền Nam ngày xưa trốn quân dịch, nên có bao giờ biết cũng như nếm được mùi chiến tranh bom đạn, và đám da trắng giàu có đa sự. Bọn này rất muốn biết và nhìn tận mắt con đường mà Hoa Kỳ, nói là đã oanh tạc một số bom đạn, nhiều hơn số lượng đả sử dụng trong thời đệ nhi thế chiến nhưng vẫn không ngăn nổi người và quân dụng Bắc Việt vào Nam.

Việc đẻ ra kế hoạch “ mười năm du lịch “ 1995-2005 “ của Võ văn Kiệt tại nghị định số 307 ngày 24-5-1995, cũng là một trong những sự sao y bản chánh của Trung Cộng, vì thấy Ðặng tiểu Bình đã thành công, khi xây dựng các khu du lịch và công nghiệp tại Thẩm Quyến, Hải Nam, Thượng Hải.. Từ đó Hà Nội đã bất chấp thực tế, vẫn hồng hơn chuyên, bỏ hằng tỷ bạc ngân sách quốc gia, để xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất và thành phố Vạn Tưởng, tại Quảng Tín-Quảng Ngãi, trước sự mai mỉa cười chê của thế giới. Khắp nước nơi nào cũng tổ chức các tour du lịch, để hốt bạc và tuyên truyền bộ mặt son phấn mới của VN xã nghĩa. Ngay chốn khỉ ho cò gáy như miền giới tuyến năm nào trong tỉnh Quảng Trị, cũng có một tour du lịch, từ Cửa Việt lên tới Khe Sanh, Tà Cơn, Cầu Treo DakRong, ngã ba QL9 và đường mòn HCM, gọi là The Demilitarized zone tour, thường viết tắt là D.M.Z. Mục đích để đảng quảng cáo các chiến lợi phẩm thời chiến tranh và cái gọi là nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, mà theo thân nhân của người quá cố, trong hòm chỉ có cát-đất mà thôi.

Có đọc trường thiên ký sự “ Ðường đi không tới “ của nhà văn VC hồi chánh là Xuân Vũ, hay đã làm lính VNCH, mới cảm nhận được cái ý vị khổ nhục cùng tận của cuộc chiến Ðông Dương lần 2 (1955-1975), do Ðệ tam quốc tế Cộng sản chủ xướng, qua vai trò tên lính tiền phương đánh mướn là Việt Cộng. Trong cuộc chiến vô nghĩa phi lý này, mặt trận tại Trường Sơn, đã là mồ chôn hằng vạn tử sĩ của cả hai phía. Những địa danh như Dốc pháo cụt, Ðồi không tên, Sông A-Vương, Lũng Giằng, Khe Sanh, Dakto, A-Shau, Ia-Drang, Pleime, Ðức Cơ.. ra tận miền Bắc, càng lúc càng trở nên khốc liệt, khi nó chính thức trở thành con đường chiến lược để Bắc Việt xâm lăng VNCH. Suốt thời gian chiến tranh, Võ Nguyên Giáp qua tư cách Ðại Tướng tổng tư lệnh quân đội VC, đã từng tuyên bố với báo chí quốc tế, là hắn sẽ đốt rụi Trường Sơn, dù phải đem giết hết thanh niên nam nữ miền bắc. Cho nên không lạ khi thấy Xuân Vũ nói “ mạng người lá rụng “, để viết về thảm kịch Ðường Ði Không Tới, của một số cán binh bộ đội hồi kết năm nào.

Tháng 11-1997, Võ nguyên Giáp khoe thành tích Bát Quái Ðồ, tức là đường Trường Sơn 559, do Ðinh Ðức Thiện và Ðồng Sĩ Nguyên lần lượt chỉ huy suốt cuộc chiến từ 1960-1975. Ngày xưa thế giới đui mù vì bị bọn trí thức khoa bảng, cha-sư, miền nam tuyên truyền lật lọng, nên chẳng bao giờ thấy được hình ảnh bộ đội Cộng sản “ sinh bắc tử nam “, khi ồ ạt vượt vĩ tuyến 17, vào đường mòn HCM, để tấn công cưỡng chiếm Miền Nam thanh bình no ấm, như họ đã thấy tại bán đảo Triều Tiên, vào tháng 6-1950, qua cuộc chiến Cao Ly. Nhưng biết sớm hay muộn cũng giống nhau, vì ngày nay trên khắp nẻo đường Trường Sơn năm củ, từ Bắc Việt vào tới Phước-Bình Long, hằng ngày đã có hằng vạn nguời Việt , đói rách bị chĩa súng có gắn mã tấu sau lưng, để bắt họ làm nghĩa vụ lao động. Cũng qua cái hình ảnh đau thương này, đã làm cho mọi người trong cuộc của cả hai phía, chợt nhớ tới những cô gái Trường Sơn năm nào, luôn mỏi ngóng các chàng lính trận có lần đã đi vào con tim của họ. Ðể rồi từ đó tới nay, tuổi xuân tháp cánh lưng trời, mà bóng ai vẫn biền biệt, như cái huyền thoại Trường Sơn, thật sự đã chết trong tâm tư đồng bào sơn cước, khi họ bị VC cướp đất, lừa bịp.. sau khi đất nước đã có hòa bình.

“ mai về quê mẹ, lên biên giới
thăm lại Trường Sơn thuở kiếm cung
rừng núi vẫn xanh màu khát vọng
chỉ ta hờn tủi, kiếp tha hương ..”

1- Bối cảnh lịch sử có liên quan tới chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 (1955-1975) :

Ngày 7-5-1954 Ðiện Biên Phủ thất thủ, nước VN tạm thời bị chia cắt thành 2 miền riêng biệt, với 2 thể chê khác nhau, do cái gọi là tứ cường Liên Xô, Anh, Pháp và Trung Cộng tự ý quyết định số phận của đất nước và dân tộc VN, tại bàn hội nghị Genève ( Thụy Sĩ ). Hoa Kỳ lúc đó là đồng chủ tịch nhưng vì một lý do gì đó, nên không ký vào biên bản. Từ đó, Bắc Việt do Hồ Chí Minh lãnh đạo, công khai theo chế độ Cộng sản và là chư hầu của Nga-Tàu. Miền Nam chọn chính thể Cộng Hòa. Hai miền VN lấy vĩ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, làm ranh giới tạm chia. Theo tinh thần hiệp ước đình chiến, quân viễn chinh Pháp phải rút hết về nước, còn VC trong mặt trận Việt Minh tại miền Nam, cũng phải tập kết ra bắc.

Từ khi chính thức làm trùm nửa nước, Hồ Chí Minh và đảng VC, theo chân Mao Trạch Ðông, phóng tay phát động phong trào cải cách ruộng đất năm 1956, làm cho hằng vạn người dân vô tội tại miền bắc, bị đấu tố chết thảm thương, trong số này hầu hết đều có công với nước hay với đảng trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Nội vụ được giấu kín hay được bọn trí thức khoa bảng da trắng thân cộng như G.Kolko, tác giả quyển “ VN Anatomy of wars 1940-1975 “ tuyên truyền hoàn toàn trái ngược với sự thật. Trong khi đó, tình hình chính trị của miền Nam từ A ố Z, bị bọn trí thức thân cộng trong và ngoài nước, moi móc, bịa đặt đủ điều vơí mục đích làm mất chính nghĩ quốc gia của người miền Nam, trong lúc đang chiến đấu chống lại sự xâm lăng của đệ tam quốc tế .

Tại VNCH, những năm đầu tiên, TT Ngô Ðình Diệm đã gặp rất nhiều khó khăn, trong việc đương đầu với với các Giáo phái và lực lượng Bình Xuyên. Lợi dụng giậu đổ bìm leo, VC nằm vùng tại miền Nam đã phát động các cuộc nổi loạn võ trang, gọi là đồng khởi tại Trà Bồng (Quảng Ngãi), Bắc Ruộng (Bình Thuận) và Mõ Cầy (Bến Tre), song song với các vụ khủng bố, ám sát đồng bào và viên chức xã ấp khắp nơi nhưng cuối cùng mọi hành động phá rối của VC đều thất bại. Theo hầu hết các nguồn sử liệu còn lưu trữ, cho biết tình hình chính trị tại VNCH, vào những năm 1956, 1957, 1958 rất khả quan từ Sài Gòn cũng như các tỉnh, nơi thị tứ cho tới chốn quê làng, đâu cũng vui sống cảnh thanh bình no cơm áo ấm. Nhờ vậy TT Ngô Ðình Diệm cũng như Chính Phủ Miền Nam, lúc đó đã gây được uy tín rất lớn trên thế giới.

Trước tình hình nguy ngập đó, Hồ Chí Minh đã phải gọi Lê Duẩn, lúc đó đang làm xứ bộ trưởng, chỉ huy cán bộ nằm vùng tại miền Nam, trở ra Bắc, để duyệt xét lại kế hoạch cưỡng chiếm VNCH bằng vũ lực, thay vì kỳ vọng vào cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định Geneve 1954 đã qui định, mà VNCH không chịu thi hành, vì không hề ký vào biên bản hiệp ước trên. Trong phiên họp lần thứ 15 của Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng, khai diễn ở Hà Nội vào tháng 1-1959, quyết định thành lập Lực Lượng Vũ Trang tại Miền Nam. Kế tiếp ngày 5-10-1960, đảng lại họp Ðại Hội 3 cũng tại Hà Nội, để thành lập Ðảng Bộ cọng sản Miền Nam, qua danh xưng “ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam “,làm cánh tay nối dài, vừa là bình phong, vừa tạo công cụ xâm lăng cho Bắc Việt. Ðúng như Lê Duẩn đã tuyên bố “ Ðó là chiến lược bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho cuộc cưỡng chiếm miền Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-Lê và giai cấp công nông “.Tóm lại theo chủ trương của Hà Nội, Ðảng Bộ CS miền Nam, tức MTGPMN, phải hành động theo ba mục tiêu chiến lược:

1- Ly gián đồng bào và chính quyền VNCH

2- Ðánh lừa dư luận thế giới về cuộc xâm lăng của miền Bắc, trở thành cuộc nội chiến tại miền Nam .

3- Tuyệt đối phải tuân theo các chỉ thị của đảng, do miền Bắc lãnh đạo, Mặt trận miền Nam chỉ thừa hành, theo đúng chính sách đề cương trong khối xã hội chủ nghĩa quốc tế.

Nên tới nay, dù được gọi bằng danh từ gì chăng nửa như Cục R, Ðảng bộ CS Miền Nam, Mặt Trận GPMN.. thì cũng chỉ là “ Mặt trận mốc xì, đảng ta đó “ qua lời tuyên bố trơ trẽn của Lê Ðức Thọ tại Ba Lê, sau khi vừa ký xong với Kissinger trên tờ hiệp định ngưng bắn năm 1973. MTGPMN được hợp thức hóa vào cuối tháng 12-1960 tại một căn cứ của VC, nằm cách biên giới Việt-Miên chừng 7km. Ðây là khu rừng già nằm kế cầu Cần Ðăng, trên con đường đá đỏ Trà Băng, Trại Bí, Xóm Mới, Sóc Ông Trang.. thuộc tỉnh Tây Ninh. Buổi lễ được đặt dưới quyền chủ tọa của Sáu Vi, bí danh của đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên bộ chính trị, bí thư trung ương đảng, nguyên phụ trách vấn đề nông dân và thanh niên miền bắc. Mặt trận có mười nhân vật khoa bảng miền Nam, đang đối lập chính trị với VNCH, gồm Nguyễn Hữu Thọ (đang bị giam tại Cũng Sơn-Phú Yên, vì tội hiếp dâm, dược VC giải thoát ), Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Phùng văn Cung, Ưng văn Kỳ.. Bọn này hầu hết thuộc thành phần địa chủ, phú gia thời Pháp thuộc, được VC nằm vùng là Huỳnh tấn Phát móc nối dụ dỗ. Tất cả được Hà Nội đem ra làm bung xung che mắt thiên hạ nhưng đầu não lãnh đạo, vẫn do Lê Duẫn, Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng, Trần văn Trà, Nguyễn Chí Thanh.. quyết định theo đúng chính sách của Hà Nội đã nghị quyết. Cũng từ đó, Nguyễn Hữu Thọ được phong hàm chủ tịch Mặt Trận, mở đầu cuộc chiến xâm lăng Miền Nam bằng vũ lực. Tại Miền bắc, Hồ Chí Minh ban lệnh hồi kết, hàng chục ngàn cán binh bộ đội trở về Nam, để thành lập “ Quân Giải Phóng “ do Trần Văn Trà làm tư lệnh. Một số lớn Hoa kiều sống tại Hải Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Thanh Hóa.. cũng được vào Nam, cùng một số Hoa Kiều thân cộng, đang do Tư Méo, tức Trương Gia Triều, bí danh Trần Bạch Ðằng chỉ huy, để trà trộn, tuyên truyền gây rối trong cộng đồng người Hoa miền Nam. Ðồng thời con đường mòn giao liên cũ, từ miền bắc vào Liên Khu 5, do đại tá Nguyễn Thông, bí danh của trung tá Nhật Ishitako, mở năm 1947, cũng được đảng giao cho Hai xe ngựa tức đại tá Võ Bẳm, nối lại, để trùng tu vào năm 1959. Ðây là con đường chiến lược Liên Việt, tức là đường mòn Trường Sơn hay Hồ Chí Minh, mang bí danh 559A. Sau khi Phạm văn Ðồng nhân danh thủ tướng nước VNDCCH, theo chỉ thị của đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, ký xác nhận quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Cộng vào năm 1958, thì Hà Nội được Tàu Cộng, giúp phương tiện mở thêm một đường dây trên biển Ðông với bí danh 559B hay 759, chuyển quân dụng và bộ đội từ bắc vào nam bằng đường thủy. Theo Ðồng văn Cống, từng phụ trách đường dây 559B từ 1959-1968, thì việc tổ chức hai con đường bí mật trên, chỉ có Hồ Chí Minh, Phạm văn Ðồng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và Trần văn Trà, biết mà thôi. Còn những người khác chỉ thừa hành theo lệnh, kể cả Nguyễn Chí Thanh, Trần Ðộ, Trường Chinh..

2- Ðường Mòn Hồ Chí Minh :

Sự thật, những chuyện đã xảy ra hằng ngày , trên đường mòn HCM, tức là hành lang xâm nhập người và quân dụng, từ Bắc vào Nam của Cộng sản Hà Nội, đối với Hoa Kỳ và VNCH, không phải là huyền thoại hay bí mật ghê gớm, vì những gì xảy ra ở đó, qua phi cơ thám thính và các toán Biệt Kích hoạt động, họ gần như biết đủ. Có chăng là sự lạ lùng, vì ai cũng biết VC là kẻ chủ mưu gây nên cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2, chứ không phải là nội chiến. Ngoài ra cuộc xâm lược qui mô đều phát xuất từ đường mòn Trường Sơn, tiếp diễn liên tục đêm ngày không bao giờ gián đọan. Thế nhưng quân lực Hoa Kỳ, Ðồng Minh và ngay cả VNCH, cũng bị chính phủ Mỹ tại Hoa Thịnh Ðốn, ra lệnh giới hạn trong lúc chiến đấu với VC, theo qui định tại nhiều điểm, được gọi là “ Luật Chiến Ðấu ố Rules of Engagement “. Ngoài ra cũng không được tấn cộng hậu phương miền bắc, để tránh sự đụng độ quân sự với Trung Cộng, như đã xảy ra năm 1950, tại chiến cuộc Cao Ly.

Năm 1985, sau mười năm chấm dứt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2, Bộ Quốc Phòng Mỹ mới cho phép giảm độ mật, khi cho Congressssional Record phổ biến hạn chế, cái gọi là “ Luật Chiến Ðấu tại VN “ qua 26 trang tóm tắt, trong đó có liên quan tới đường mòn Hồ Chí Minh. Cũng nhờ vậy, ta mới biết được nhiều điều thật vô lý, chỉ có siêu cường Mỹ mới có. Chẳng hạn nhu trong luật chiến đấu, có điều 3 cấm không quân Mỹ giội bom các quân xa VC, nếu chúng ở cách đường mòn HCM 200m. Ðiều này giúp cho quân xa Bắc Việt an toàn khi chúng lái xe trên đường mòn Trường Sơn, lúc nghe máy bay Mỹ oanh tạc, chỉ cần lái x e ra khỏi vị trí 200m, là hết chuyện. Còn điều 6 thì cấm quân Mỹ truy kích VC, nếu chúng rút qua biên giời Lào hay Kampuchia. Biết vậy, nên hầu hết các căn cứ của Bắc Việt, kể cả cục R đều đươc lập sát hay bên kia biên giới, nên rất an toàn. Do trên các cuộc hành quân vượt biên mang tên Toàn Thắng, vào năm 1970 tại Miên hay hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, vào thời TT Nixon, đã bị đảng Dân Chủ Mỹ thân cộng, căn cứ vào luật chiến đấu, la ó phản đối dữ dội. Cuối cùng tại Quốc Hội, cũng cái đám nghị sĩ-dân biểu đảng Dân Chủ Hoa Kỳ, ra luật cấm quân lực Hoa Kỳ hành quân vượt biên khỏi Nam VN. Những bí mật nhỏ nhoi trên, chỉ là một trong muôn ngàn điều bật mí sau này, cũng là lý do, khiến cho Mỹ cũng như VNCH, dù đã nỗ lực và hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, xương máu nhưng cuối cùng vẫn không ngăn nổi cuộc tiến quân của Bắc Việt, trên đường mòn HCM. Theo Ðồng Sĩ Nguyên, phụ trách Binh Ðoàn 559A từ tháng 12/1966 tới tháng 4/1975, thì đơn vị này có gần 2000 xe vận tải và 4 binh trạm, với nhiệm vụ tải người và quân dụng từ miền Bắc vào Nam. Quân số của Binh đoàn 559A trên 120.000 người, gồm 10.000 thanh niên xung phong, 1 sư đoàn cao xạ phòng không của Bộ TTM/VC tăng phái và tám sư đoàn vận tải, chiến đấu trực thuộc. Sau ngày ký hiệp định ngưng bắn 1973, Cộng sản Bắc Việt bãi bỏ giai đoạn gùi thồ đường đất và binh trạm, mà công khai chuyển quân từ Bắc vào Nam, mỗi lần cả sư đoàn tới binh đoàn, kể cả tăng-pháo, trước sự bất lực của VNCH khi Hoa Kỳ đã phủi tay về nước. Do trên cuộc hành trình chỉ mất 12 ngày, thay vì 4 tháng như trước, nên VC lúc nào cũng đủ quân số và quân dụng, vì có cả một núi người sẵn sàng “ sinh bắc tử nam “, cũng như các nước xã hội anh em, nhất là Trung Cộng, hết lòng chi viện. Trong lúc đó, VNCH chiến đấu với cả khối Cộng sản đệ tam quốc tế trong cô đơn nơi chiến trường, đã vậy còn bị bọn cốt người mà óc khỉ tại hậu phương, công khai đâm hùa trí mạng. Chiến đấu trong hoàn cảnh thê thiết như vậy, không mất nước mới là chuyện lạ ?

A - ÐƯỜNG MÒN TRƯỜNG SƠN :

Hầu hết con đường chiến lược HCM đều nằm trên rặng Trường Sơn, kể cả tuyến xuất phát tại Vinh (Nghệ An), cho tới đoạn cuối cùng rẽ vào Phước Long. Rặng Trường Sơn là xương sống của Trung phần, khởi đầu từ sông Cả tới sông Bông (Quảng Nam), chạy dọc theo biên giới Việt Lào. Từ Bắc vào Nam, có nhiều rặng núi cao trên 2500m, như Pu-Sai-Lai-Leng ở Nghệ An cao 2711m, Vụ Quang tại Hà Tĩnh cao 2286m, A Tuất ở Thừa Thiên cao 2550m.. Nhưng nhờ có nhiều đèo như Kéo Nưa trên núi Bà Mụ, đèo Mụ Giạ ở Hà Tỉnh, đèo Lao Bảo trên quốc lộ 9, nên sự thông thương giữa Lào-Việt rất thuận tiện. Từ năm 1960 về sau, Bắc Việt lợi dụng những đường đèo trên, để nối liền nhánh Trường Sơn Ðông ở VN sang Trường Sơn Tây, hoàn toàn nằm trên đất Lào.

Rặng Trường Sơn từ phía nam sông Bông tới Miền Ðông Nam Phần, được gọi là Cao Nguyên Nam Trung Phần, vì độ cao chỉ còn trung bình 1000m, trừ phía bắc tỉnh Kon Tum, cửa ngỏ của Bắc Việt xâm nhập vào Vùng 2 chiến thuật, lại có nhiều rặng núi cao, rất đồ sộ và hiểm trở như Ngọc Lĩnh (2598m), Movia (2338m), Ngok Krin (2215m). Tại tỉnh Pleiku, cao nguyên Nam Trung Phần, hơi cao ở mạn đông tại ranh giới các tỉnh Phú Bổn, Bình Ðịnh nhưng lại thấp dần ở Miền Ba Biên Giới. Lợi dụng địa thế thiên nhiên vùng này, Hà Nội đã làm một nhánh rẽ, từ Ðức Cơ-Pleime xuống miền duyên hải Trung phần.

Khởi đầu từ năm 1959, đường mòn HCM do Hai xe ngựa (Võ Bẳm) sáng tạo, thật sự chỉ là một tuyến đường gùi vô cùng bí mật, với “ đi không để dấu, nấu không để khói và nói không thành tiếng “.Sau đó theo thời gian và nhu cầu chiến cuộc, tuyến gùi phát triển dần thành tuyến đường thồ xe đap, rồi đường xe ô tô với đường dây điện thoại cùng hệ thống ống dẫn dầu, chạy song song kế đường mòn. Có thể gọi đây là một Bát Trận Ðồ cũng không ngoa chút nào vì con đường có tới hằng trăm, hằng ngàn nhánh nhỏ, chạy chằng chịt dọc ngang, từ đông sang tây, khắp nam tới bắc, chẳng biết đâu mà mò, kể cả VC, nếu không có giao liên hướng dẫn, vẫn bị lạc chết đói, như Dương Thu Hương đã kể trong tiểu thuyết “ Vô Ðề “.Sau năm 1973 khi hiệp định ngưng bắn ra đời, Kissinger cho phép quân Bắc Việt ở lại VNCH hợp pháp như là một thực thể chính trị, giúp Hà Nội ngang nhiên xây dựng con đường chiến lược trên, thành một xa lộ đất xe cộ xuôi ngược rộn rịp đêm ngày. Năm 1974, chủ tịch Cộng sản Cuba là Fidel Castro đã tặng cho Hà Nội, một dàn thiết bị máy móc, làm cầu đường do Nhật chế và còn giúp một đơn vị công binh, tới tận Quảng Trị hướng dẫn công binh Bắc Việt, làm chiếc cầu dây treo Dakrong, nằm trên ngã tư Khe Sanh-Tchépone và đường mòn. Sau đó chính Fidel Castro tới tận chỗ để làm lễ khánh thành cầu, còn được hướng dẫn đi thăm Ðông Hà, mà Bắc Việt khoe là vùng giải phóng, từ sau trận Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972.

Theo các tài liệu hiện hành của cả mọi phía, có trong thư viện và báo chí VC sau này, thì hệ thống đường mòn HCM, chạy dài từ Trung Lào tới Cam Bốt, sự thật là hoàn toàn nằm trên lãnh thổ Lào-Miên. Con đường này được xâm nhập vào lãnh thổ VNCH bằng năm nhánh rẽ với 21 trục giao liên, có chiều dài tính theo đường đất tổng cộng hơn 12.000 dặm Anh. Con đường được mang nhiều tên và chỉ có đọan trên lãnh thổ Bắc Việt, mới được gọi là đường Hồ Chí Minh. Riêng khúc đường chạy trong lãnh thổ Lào và Nam VN lại có nhiều tên như đường Thống Nhất, Dân Tộc Giải Phóng và Cách Mạng. Còn đoạn cuối trên đất Miên là đường mòn Sihanouk. Ðể bảo toàn bí mật, tất cả hàng hóa, quân dụng, vũ khí và bộ đội xuất phát từ ga Hàng Cỏ (Hà Nội) hay Vinh (Nghệ An), đều được đưa tới cửa ngõ Tân Kỳ (Nghệ An) hay Quán Trại (Ðức Tho-Hà Tĩnh), để vào Quảng Bình và Quảng Trị, rồi từ đó mới xuất tuyến xâm nhập vào Nam. Nhưng đường đi, dù ở trong lãnh thổ Bắc Việt, vẫn vô cùng nguy hiểm, vì bị phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc hằng ngày, nhất là tại thung lũng tử thần Ðồng Lộc. Ở đây, đường chạy giữa hai rặng núi cao, bên này là Rú Mòi, còn phía kia mang tên Sọ Voi. Ðây chính là cửa ngỏ đầu tiên, của đường mòn HCM, nối liền bắc VN tới lãnh thổ Lào. Từ đó đường mòn mang tên Trường Sơn Tây, tiếp tục tới Khâm Muôn (Lào), thì gặp Ðường 20 Quyết Thắng, từ Phọng Nhạ (Quảng Bình) sang. Khúc đường này dài hơn 127 km, chạy len lỏi giữa khu rừng già Kẽ Bàng và miền hoang địa Bulapha của Lào.

Theo báo Aux Ecoutes du Monte, thì hải cảngVinh (Nghệ An), là yết hầu của đường mòn HCM, vì gần như mọi thứ đều xuất phát ở đây, để xâm nhập vào Nam. Cũng từ đây, đường được phân làm ba nhánh qua Lào, để tránh thiệt hại vì sự oanh tạc của máy bay Mỹ. Riêng tổng hành dinh của Ðoàn 559A, thì đóng rải rác trong khu tam giác các thị trấn Napé, Kamkeut,Kanmon.. nằm dọc theo con sông Nam Pao của Lào. Ðây là một quân chủng đặc biệt của Cộng sản Bắc Việt, gồm công binh, vận tải, trách nhiệm bảo trì, sửa chữa con đường, đồng thời phân phối quản trị đoàn dân công, xe tải chuyển vận bộ đội, vũ khí, tiếp liệu từ bắc vào chiến trường miền Nam.

Tại ngã ba Khâm Muôn, giao điểm của hai nhánh Quyết Thắng 20 và Tân Kỳ, đường mòn HCM, đi vào khu rừng già Hạ Lào, cặp kè với con sông Nam Cà Dinh, chạy tới đỉnh dốc đứng 1001 trên núi Răng Cọp. Từ đây đường mòn đổi tên thành Trường Sơn, sau khi vượt qua vĩ tuyến 17, để tới thị trấn Tchepone (Muang Xepon) nằm trên quốc lộ 9. Ðây cũng là phân nhánh đầu tiên của đường mòn Trường Sơn, xâm nhập lãnh thổ VNCH, để tấn công các căn cứ quân sự Lao Bảo, Khe Sanh, Làng Vei, Cà Lu.. trong tỉnh Quảng Trị. Sau đó, đường mòn vẫn tiếp tục chạy trên đất Lào tới núi Ấp Bia (937m), một địa danh nổi tiếng, trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), được một ký giả ngoại quốc, chứng kiến tận mắt cảnh hàng ngàn xác bộ đội Bắc Việt, bị banh thây bỏ lại tại chiến trường, vì bom dạn phi pháo, nên đã đặt là Hambuger Hill. Tại đây, đường lại được phân nhánh tới các thung lũng A Lưới, Tà Bạt và A Shau. Ðậy là bàn đạp mà Hà Nội tập trung bộ đội, để tấn công Thừa Thiên và Ðà Nẳng. Sau khi vượt qua cao nguyên Boloven gần ngã ba biên giới Việt-Lào-Miên, đường mòn lại phân thành hai nhánh khác chạy vào lãnh thổ VNCH, một nhánh phát xuất từ Savarane tới Dakto, Tân Cảnh, Kontum.. trước khi ngang qua các trại Lực Lượng Ðặc Biệt Benhet, Dakto.. Nhánh khác từ Attopeu vào Pleiku, ngang qua Trại LLÐB Ðức Cơ, Pleime. Nằm giữa hai nhánh rẽ này vẫn trên đất Lào, là mật khu 609 của Bắc Việt. Kể từ đây, đường mòn Trường Sơn đổi thành đường mòn Sihanouk, với nhiều mật khu như 702,701,740, 203,351,350 và 400. Trên đất Miên, đường mòn có một nhánh rẽ vào Phước Long và phần cuối cùng chạy xuống tận hải cảng Kampong Som (Sihanouk Ville) của Miên. Chính tại đây, Bắc Việt nhận trực tiếp hàng hóa viện trợ của Nga,Tàu và Ðông Âu, tới năm 1970 mới chấm dứt, khi Sihanouk bị Lonnol lật đổ. Nhờ đó Hoa Kỳ và QLVNCH mới được phép hành quân sang đất Miên theo lời yêu câu của chính phủ mới, nên mối tiêu diệt gần như tất cả các mật khu của Bắc Việt tại đây, qua các cuộc hành quân Toàn Thắng và Cửu Long.

Tóm lại suốt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, ngoài số nạn nhân chết bởi bom đạn, giao tranh, phần lớn bộ đội, cán binh Cộng sản miền Bắc, được ghi nhận là ngã gục trên đường Trường Sơn, vì trăm ngàn nổi gian lao cực nhọc và bệnh tật, đó là chưa kể tới chết khi đụng trận, bị bom đạn oanh tạc, mìn bẩy. Hàng vạn nấm mồ hoang lạnh, được vùi lập vội vàng, trên con đường dài heo hút, chỉ một thời gian ngắn, đã biến thành phân mục, bón xanh thêm cây lá rừng hoang, như Trần Xuân Lợi, một bộ đội vượt tuyến đã viết :

“ Những hồi mưa ngớt
Tựa nghĩ gốc cây
Nhìn rừng không nói
Nhìn mây chẳng thấy
Chỉ có núi đèo
Kế nhau nối tiếp
Oại là khủng khiếp
Cho cảnh Trường Sơn ..”

Hay : “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ, chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, áo bào thay chiếu anh về đất, sông nuí gầm vang khúc độc hành ố Quang Dũng “.Tất cả là sự thật, mà Ðại Tá Võ Ðại Tôn, tức nhà thơ Hoàng Phong Linh, trong cuộc Ðông Tiến bất thành, khi trở về VN để giải phóng quê hương sau năm 1975, đã ghi lại :

“ Ðỉnh núi cao mây vờn,
đá nghìn năm quên tuổi
ta lạc loài như dã thú không tên
qua Tchépone, Boloven
về Hạ Lào thăm thẳm
Atopeu đường xa muôn dặm
Rừng tây nguyên heo hút trong tim ..”

1, 2

pay per click advertising

Weblinks :

 

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

free counters
un compteur pour votre site