lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin Blogs:

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu Nhật-Tân:

Blog Chu-Mộng-Long:

Blog Cu Làng Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Diễn-Đàn Công-Nhân:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Blog Quê Choa VN:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Diễn-Đàn Sửa Đổi Hiến-Pháp 1992:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Trí-Lực:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Weblinks:

 

 

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam 

Thư-Viện Bồ Đề Online_Thư Viện Hoa Sen

nơi hội tụ của những tâm hồn trăn-trở về nhân-sinh quan và vũ-trụ quan

đồng thời xiển-dương Chánh Tín_bài trừ Mê-Tín Dị Đoan 

 

Thần Việt Điện_Thập Nhất Đại Thần Tướng Việt Nam
- thời cận đại -

thập nhất đại thần tướng việt nam, thần tướng ngụy văn thà, hoàng sa trường sa, hộ tống hạm nhật tảo hq 10

Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần
Sinh ra là Tướng chết đi thành thần
Thế, Đông, Ân, Thanh, Thà, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn
Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.

Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo, Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính 2011, 2013, 2014 (trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)

quân đoàn 4 quân khu 4biệt động quân, quân đoàn 4 quân khu 4 Sư đoàn 21 bộ binh Việt nam cộng hòa

thần tướng hồ ngọc cẩn

Thần tướng Hồ-ngọc-Cẩn 

Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn

11/ Thần Tướng Hồ-ngọc-Cẩn (1938-1975) - nhiều tác giả

Phạm Phong Dinh

Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây.  Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh.  Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long.  Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng.  Chỉ trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh "Tia Sét Miền Tây".  Lúc đó trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà đã được ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây. Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này.  Những vị còn lại gồm những tên tuổi như sau:

- Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân
- Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ 21BB.
- Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ 21BB.

Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng.  Đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng.  Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, vì những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc. 

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá.  Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm).  Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn.  Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố.  Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm thì thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định.  Có lẽ vị thân sinh của người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước

o0o

Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã 17 tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa.  Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn.  Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí.  Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung bình, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu.  Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2.  Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì.  Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, thì ba tháng sau, Binh Nhì Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ.  Trong vòng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường.  Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn.  Nhưng định mệnh đã dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc.

Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội còn tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt.  Bộ Quốc Phòng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến.  Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng đỡ cho các đàn em TSQ.  Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt.  Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực Lượng Đặc Biệt.  Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp.  Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa. 

Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu.  Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn.  Khu 42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đ ó là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân "Cọp Ba Đầu Rằn", và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân "Cọp Xám".  Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng.  Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn.  Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục. Cung cách đánh giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông.

Lời yêu cầu này được thỏa mãn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết.  Có lần ông tâm sự với một người bạn lý do này: "Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi.  Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được.  Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy.  Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi.  Vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã.  Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi".  Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972.  Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nã hàng ngàn quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm, như vị chỉ huy, điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như bão lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt, từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ.
Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết.  Mà dường như cái chết cũng sợ hãi và tránh xa con người kiệt xuất ấy.  Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972.  Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau.  Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân: "Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn"!

Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta.  Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm vì đạn pháo giặc.  Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái "miệng ve" để ẩn trú.

Nếu pháo dội trúng cái "miệng ve" nào, thì chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi.  Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung bình mỗi mét vuông lãnh vài trái.  Nếu tính theo lý thuyết toán học thì mỗi chiến sĩ Trung Đoàn "ăn" từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết.  Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật "cò ỉa miệng ve" của quân ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ.  Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, thì thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương.  Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với quân địch, thì con số thương vong lên rất cao.  Có nhiều đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn khoảng ba chục chiến sĩ.

Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh vì pháo địch quá ác liệt.  Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.

Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên thì ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài Gòn. Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn. Cuối cùng thì dòng họ Nguyễn Viết đã cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú.  Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, thì Trung Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn.  Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc.  Vì những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.

Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang.  Những tổn thất và vết thương còn chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác.  Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ thì người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc.  Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi.  Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh.

Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ.  Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.

Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đã được kể lại.  Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình định tài ba.  Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một vòng tỉnh lỵ Vị Thanh.  Ông vào các sòng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.

Ngày hôm sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này.  Thay vào đó là Trung Tá Đường (k11), một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng.  Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chãi của Đại Tá trong lĩnh vực bình định, xã hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh.  Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh.  Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường còn có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh.  Đại Úy Bé đã làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch tình, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn bão lửa lên đầu chúng.  Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh.

Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của mình được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lý do Việt Cộng pháo kích hay tấn công.  Đại Tá Cẩn thỏa mãn tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực. Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận.  Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được.  Ông Quận Trưởng đang nằm trên võng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại.  Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: "Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B. Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A".  Ông Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết.  Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu.

Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đã trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này.  Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được. Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Hòa.  Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi.

Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em.  Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: "Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không?" Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã khiêm tốn trả lời: "Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn.  Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, mình phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được.  Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân.  Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua". Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người.  Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái.

Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến. Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp còn chưa được biết và nhắc nhở tới.  Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh.

Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi phòng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía.  Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng ghì chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của mình. Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: "Chết thì chết chứ không lùi".  Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến.

Ông nhớ lại những ngày sình lầy với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dã.  Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này.

Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng,  Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng.  Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn phòng Bộ Tư Lệnh.  Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi ông tự sát ngay trong đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn.

Nếu có chết thì Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa công chính.  Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa vòng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không còn gì để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng.  Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt.  Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng: "Anh Cẩn, tội anh đáng chết vì những gì anh đã gây ra cho chúng tôi".  Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.

Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện.  Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn.  Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa.

Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng.  Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hãy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của mình.  Chúa Jesus đã chẳng từng nói khi lên thập giá: "Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm" đó sao.

Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lý lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đã liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn vào sang dãy tường rào kín bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá Cẩn ra.  Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời còn lại của bà. 

Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển.  Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.

Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, vì là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử. Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận: "Sống chết nằm trong tay Chúa".  Vì vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng.

Quân dân Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang đã áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành hình người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Hòa. Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục khí phách của người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy.  Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.

Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng bao quanh người chiến sĩ.  Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: "Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi.  Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối".  Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại.  Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho ông là không bịt mắt, để người nhìn thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào.  Rồi ông ngạo nghễ ra đi. Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đã cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc.  Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đã từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đã gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này. Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, thì chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.

Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: "Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!  Đả Đảo Cộng Sản!"  Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn.
Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn.  Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra thì thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.

Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân. Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên.

Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hãy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam còn đang chìm đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy ban cho những người còn đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.

***

Mãnh Hổ Rừng Xanh
Kính bái hương hồn Đại-Tá Hồ-Ngọc-Cẩn

Anh hùng Hồ Ngọc Cẩn, nguyên tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện.

Hồ Ngọc Cẩn xả thân vì nước
Ngẩng cao đầu tổ quốc yêu thương
Nhẫn tâm viên đạn phũ phàng
Tuôn dòng máu đỏ chói chang cờ vàng

Mười bốn tuổi theo đường binh nghiệp
Thiếu sinh quân từng lớp vượt qua
Sĩ quan quân lực cộng hoà
Thăng hàm đại tá mới vưà ba tư

Chàng trẻ tuổi  thiên tư vời vợi
Phá vòng vây hợp với tướng Hưng
Anh em tay bắt mặt mừng
Thắm tình huynh đệ nức lòng quân dân

Dương tổng thống ươn hèn hàng giặc
Cả miền Nam tủi nhục lầm than
Dép râu nón cối tro tàn
Tiểu khu Chương Thiện lưả đàn máu chan

Ngày mồng một tháng năm thất thủ
Giưã vòng vây biển lưả hận thù
Báo rừng đâu dễ cúi đầu
Kẽm gai chúng trói nát nhừ thịt da

Bầy lang sói tà ma độc ác
Hồ Chí Minh lão tặc truyền cho
Mác Lê đại hán côn đồ
Thi nhau cắn xé máu trào xương tan

Lập toà án vội vàng xử bắn
Không luật sư bấn loạn tâm thần
Tội vì chống lại nhân dân
Giết quân giải phóng công an chính quyền.

3.11.2011 Lu-Hà

***

Anh-Hùng Hồ-ngọc-Cẩn

Trúc-Lâm Lê-An-Bình sưu khảo

Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938 và mất ngày 14 tháng 8 năm 1975

Nguyên Ðại tá Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện năm 75.

Là sĩ quan Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Cố Đại tá nổi tiếng nhờ sự tác chiến vững chải và gan dạ của ông. Ông là sĩ quan trẻ tuổi và thăng cấp mau lẹ của QLVNCH (nhờ thực tài).

Hiến dâng trọn cuộc đời cho công cuộc đấu tranh chống bạo quyền Cộng-sản, dành lấy tự do cho dân tộc, Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn xuất thân từ một gia đình có truyền thống chống Cộng. Nhập học trường Thiếu Sinh Quân năm 14 tuổi. Sau 4 năm học, nhà trường đã rèn luyện ông thành một chiến sĩ có căn bản vững chắc về lập trường Quốc-Gia và kiến thức Quân-sự.

Năm 18 tuổi, sau khi tốt nghiệp Trường Thiếu Sinh Quân, ông đã trở thành Huấn Luyện Viên Quân Sự của nhà trường. Tiếp tục theo học Khóa 2 Sĩ quan Ðặc biệt Ðồng Ðế Nha Trang vào năm 1961-1962. Ông đỗ Thủ khoa với cấp bậc Chuẩn úy và giữ chức vụ Trung đội trưởng Biệt Ðộng Quân.

Qua nhiều cuộc giao tranh ác liệt với Vc từ 1962-1963, ông đã trưởng thành trong khói lửa và được đề cử giữ chức vụ Ðại đội trưởng 368 và cũng trong thời gian này ông được bầu làm Chiến sĩ xuất sắc của Binh chủng Biệt Ðộng Quân thuộc Quân khu 4. Do đó, không lấy làm lạ khi ông được tuyển-chọn đi dự Khóa Sình Lầy Mã-Lai năm 1964.

Với những chiến công dồn dập, ông được thăng cấp Ðại úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 42 BÐQ.

Từ 1966-1968, ông được thăng cấp Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh. Sau đó, ông giữ chức vụ Trưởng phòng 3 Sư đoàn 21 Bộ Binh và là Thuyết trình viên cho chiến dịch U-Minh, nhằm tấn công và kiểm soát vùng này.

Từ 1970-1971 : Trung tá Trung đoàn phó Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh.

Từ 1972-1973 : Trung tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 15 Bộ Binh thuộc Sư đoàn 9. Trung đoàn 15 Bộ Binh được tăng phái hành quân cho Sư đoàn 21 Bộ Binh. Tư lịnh lúc bấy giờ (Sư đoàn 21 Bộ Binh) là Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu, trước kia là Tư lịnh phó Sư đoàn Nhảy Dù, đang đảm trách chỉ huy hành-quân giải-tỏa An-Lộc. Bộ chỉ huy hành quân lúc đó đóng tại Lai-Khê.

Sau khi nhận lịnh, Trung tá Cẩn cho xuất phát hành quân. Suốt 3 ngày đêm ròng rả vượt bao gian khổ trở ngại, đơn vị của ông bị địch phát giác. Bọn địch cố bám vị trí yết hầu đường đi lấy nước. Ông tìm cách liên-lạc với Bộ Tư lịnh Sư đoàn 21 Bộ Binh. Người chịu trách nhiệm tiếp tế nước lúc đó là Ðại tá Nguyễn Tiến Lộc, thường gọi là ông già FM đầu bạc, Tham mưu trưởng Sư đoàn. Trung tá Cẩn rất khiêm nhường chỉ xin được tiếp tế muối và nước để cuộc hành quân lịch-sử giải-tỏa An-Lộc có thể tiếp tục được. Ðại úy Hạnh, Sĩ quan Tiếp tế và Chuyển vận thuộc phòng 4, Sư đoàn 21 Bộ Binh đã lấy võ đạn 155 đựng nước, vặn khóa thả dù tiếp tế.

Với bao kinh nghiệm và thao lược sẵn có, Trung tá Cẩn đã cùng các cánh quân bạn chọc thủng phòng tuyến của địch, đánh bật Cộng quân ra khỏi vùng tử thủ. Sau cùng nối liền tuyến phòng ngự của Tướng Lê Văn Hưng. Hai bên tay bắt mặt mừng, thấm tình Huynh Ðệ Chi Binh.

Trong chiến dịch này, Hồ Ngọc Cẩn được thăng cấp Ðại tá với 20 tuổi lính và 34 tuổi đời, tuổi hăng say tin tưởng vào tương lai. Ông nhận nhiệm vụ mới với nhiều khó khăn thử thách trong tình trạng khẩn trương của đất nước : Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện.

Ở đây, sau một thời gian đọ sức đấu trí gay go, ông đã dọn sạch các căn cứ hậu cần của Cộng quân xây dựng từ nhiều năm trước đó.

Bất cứ ở đâu, bất cứ chức vụ nào do cấp trên giao phó, ông đều gieo rắc sự kinh-hoàng cho địch và đồng thời đem lại vinh quang về cho hàng ngủ Quốc gia.

Ngày 30 Tháng 4 năm 1975, Cộng sản thôn tính trọn miền Nam. Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn lại có dịp chứng tỏ long trung kiên dũng cảm và son sắt trước uy vũ bạo tàn.

Thực vậy, sau nhiều ngày bị Cộng quân tấn công bằng xa tăng và có pháo binh yểm trợ vào Tiểu khu Chương Thiện, Ðại tá Cẩn chỉ huy chặn đứng nhiều đợt tấn công biển người của địch quân. Nhưng ‘mãnh hổ nan địch quần hồ‘. Sáng ngày 30/4/75, chu vi phòng thủ càng bị thu hẹp lại. Trong khi binh sĩ còn đang cầm súng với không hơn 2 Ðại đội với nhiều người hy sinh và bị thương. Ðến 12 giờ trưa cùng ngày, có lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, ông vẫn hiên ngang cùng binh sĩ tử thủ chiến đấu mặc dầu khắp nơi bọn Cộng quân đều hô hào đại thắng. Ðến 5 giờ chiều, bọn chúng tấn công mạnh vào phía Ðông của Tiểu khu. Chi đội Thiết vận xa của ta thất thủ. Cộng sản đã xử dụng M113 lấy được làm phương tiện tấn công quân ta. Phía Bắc và Tây Tiểu khu, Cộng quân cho lực lượng Bộ Binh trang bị vũ khí hùng hậu có pháo binh yểm trợ ồ ạt tấn công. Sau 2 giờ quyết tử, tuyến phòng thủ pháo binh của Sư đoàn 21 Bộ Binh hoàn toàn tê liệt. Cộng quân lại xử dụng trọng pháo 155 ly lấy được của ta bắn xối xả vào Bộ chỉ huy Tiểu khu.

Toàn thể chiến sĩ còn lại đã chiến đấu vô cùng anh dũng dù đạn dược đã cạn dần từ lúc 10 giờ đểm 30/4/75. Mãi đến 11 giờ đêm ngày 1/5/75, Bộ chỉ huy Tiểu khu mới hoàn toàn thất thủ.

Trước giờ phút nghiêm trọng này, đức tính trong sáng của người chỉ huy vẫn được thể hiện nơi Ðại tá Cẩn. Thực vậy, không muốn cho đồng đội hy sinh, Ðại tá Cẩn đã buộc tất cả phải rời Tiểu khu. Chỉ còn lại một mình và người lính cận vệ trung thành, Ðại tá Cẩn dũng cảm chiến đấu ngăn chận địch che chở cho anh em binh sĩ rút lui bằng khẩu đại liên và 4 thùng đạn.

Hết đạn, Cộng quân ập vào chiếm Trung tâm Hành quân, Ðại tá đã tự sát với khẩu rouleau nhưng không kịp thi hành ý định nên đành phải sa cơ.

Cộng sản dùng xe Jeep chở Ðại tá Cẩn đến phi trường Vị-Thanh. Nơi đây chúng đã đánh đập Ðại tá Cẩn rất dã man, dùng súng dọa giết. Ðại tá Cẩn dõng dạc nói thẳng vào mặt kẻ thù : ‘Tôi chỉ có một mình không vũ khí, nhưng tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá Quốc kỳ của tôi lần sau cùng’. (Ðây là lời kể lại sau này của một tên Cộng sản bắt Ðại tá Cẩn, nhưng kính phục hành động anh hùng của Ðại tá Cẩn nên kể lại cho thân nhân và một số người ở vùng miền Tây nghe).

Thấy Ðại tá Cẩn bất khuất, chúng trói ông bằng kẽm gai và giải về Tiểu khu Chương Thiện, giam ở nơi đây hơn 3 tháng, sau đó chuyển về Cần Thơ và nhiều lần đổi trại giam. Nhiều chiến sĩ ta bị giam chung cho biết Cộng sản đã tra tấn hành hạ ông bằng đủ mọi hình thức dã man nhất. Nhận thấy vô vọng, không khai thác được gì ở người anh hùng này nên chúng đành mượn tay tòa án (một thứ tay sai đắc lực của đảng CSVN) kết án tử hình ông với tội danh hết sức kỳ quái : ‘Giết hàng ngàn người vô tội‘. Mặc dù dân chúng còn ở lại Việt Nam sau năm 75, không còn lấy gì làm lạ với những bản án như vậy, nhưng bọn chúng vẫn lì lợm gọi đó là ‘Tòa án nhân dân’ và ‘Nhân dân đã phán xét như thế‘.

Sáng ngày 14/8/75, trước vành móng ngựa với hai tay bị còng, sau khi bản án viết sẵn đọc xong, bọn chúng liền nhanh tay nhét giẻ vào miệng Ðại tá Cẩn để ông không kịp nói lời nào. Mọi người Việt Nam có mặt hôm đó đều vô cùng xúc động và thương tiếc.

Buổi chiều cùng ngày, bọn chúng đưa Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn ra sân bắn, bịt miệng, bịt mắt. Thản nhiên bình tỉnh như sẳn sàng tiếp nhận một cái chết anh hùng khi thất thế. Hiên ngang đi vào lòng đất Mẹ, Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn đã nằm xuống nhưng gương sáng vẫn rạng ngời.

***

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn 

(b. 24/3/1938 – d. 14/8/1975)

***

Khi Tôi Chết

T/g: Tr.T Nguyễn Văn Phán, TĐT/TĐ8/TQLC/QLVNCH

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển.
Đưa tôi về Lao-Bảo, Khe-Sanh.
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành.
Ôi! Lính chiến, một thời kiêu hãnh quá!

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bến-Hét, Dakto.
Nơi bạn bè tôi xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường-Sơn yêu quí.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển.
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu Đ.
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề:
“Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.”

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển.
Đưa Tôi về Cái-Nước, Đầm-Dơi.
Đêm U-Minh, nghe tiếng thét vang trời.
Mừng chiến thắng để dâng về Tổ-Quốc.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển.
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam.
Gói thân tôi ba sọc đỏ, màu Vàng.
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.

***

Quốc Hận 30-4-1975

đại tá hồ ngọc cẩn

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện và trung tá cố vấn Mỹ Craig Mandeville-

***

VỊ QUỐC VONG THÂN

Hồ Ngọc Cẫn

Tưởng niệm ngày giổ thứ 36 cố Đại tá HNC .

Giọng bình thản: Tôi không mang súng
Đang một mình cũng chẳng hàng ai
Hảy bắn đi đừng dài dòng đọc
Cọng sãn là lừa lọc dả man… Đá đảo…

Đất Rạch Giá sinh Hồ Ngọc Cẫn
Thiếu Sinh Quân hướng dẩn vào đời
Anh hùng quân đội một thời
Dọc ngang, ngang dọc vùng trời miền Tây…

Chàng chuẩn úy về đây còn trẻ
Bốn năm sau làm kẻ chỉ huy
Tiểu đoàn trưởng đầy quyền uy
Đặc cách mặt trận nhiều huy chương vàng.(1)

Tuổi nhỏ nhất vào hàng tỉnh trưởng(2)
Tội và công tưởng thưởng phân minh
Quân dân Chương Thiện đồng tình
Giặc thù khiếp sợ U Minh kinh hoàng.(3)

Đang thắng trận lệnh hàng buông súng
Đánh đến cùng hết đạn thế cô
Pháp trường ai chọn Tây đô (4)
Xử người chiến sỹ giày shaut một đời…

Trước khi chết trả lời điều ước:
Mang quân phục hát được quốc ca
Mắt trần không bịt anh la:
Việt Nam mãi mãi Cộng Hòa muôn năm../(5).

CA Aug/14/2011
STV

(1) 87 huy chương đủ loại
(2) 35 tuổi
(3)U Minh Thượng
(4)Cần Thơ
(5) Ân huệ không được đáp ứng & chữ in đậm là lời nói cuối cùng.

***

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn 

(b. 24/3/1938 – d. 14/8/1975)

*

Hồ Ngọc Cẩn (24 tháng 3 năm 1938 – 14 tháng 8 năm 1975) là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông giữ nhiều chức vụ tác chiến trong binh chủng biệt động quân trong giai đoạn đầu đường binh nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 bộ binh. Chức vụ cuối cùng lúc bị phía cộng sản bắt là đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện (tỉnh lị là Vị Thanh nay là tỉnh lị tỉnh Hậu Giang). Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu để cuối cùng đối phương vây bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.

Thiếu thời

Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại miền tây. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc gia Việt Nam. Thuở nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học năm (1945) thì Chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường thiếu sinh quân. Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 7 trường thiếu sinh quân như sau:

Trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu, ở Gia Định

Trường thiếu sinh quân đệ nhị quân khu ở Huế

Trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu ở Hà Nội

Trường thiếu sinh quân Móng Cái dành cho sắc dân Nùng

Trường thiếu sinh quân đệ tứ quân khu ở Ban Mê Thuột

Trường thiếu sinh quân Đà Lạt của quân đội Pháp

Trường thiếu sinh quân Đông Dương của quân đội Pháp, ở Vũng Tàu

Ông được thu nhận vào lớp nhì trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho.

Khi Hiệp định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm 1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu di chuyển từ Hà Nội vào, sát nhập với trường đệ nhất quân khu ở Mỹ Tho. Niên học 1954-1955, trường bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Ông học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt văn là ông Nguyễn Hữu Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào mà ông lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của ông được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của ông chỉ đứng thứ nhì trong lớp mà thôi.

Binh nghiệp

Năm 17 tuổi ông được gửi lên học tại Liên trường võ khoa Thủ Đức, về vũ khí, niên khóa 1955-1956. Sau ba tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu ký đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì.

Theo quy chế dành cho các thiếu sinh quân thời đó, một học sinh ra trường, thì ba tháng đầu với cấp bậc binh nhì, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau ông là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.

Chiến tranh tại miền Nam tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 thì lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ quốc phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Ông được nhập học và tốt nghiệp khóa sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy.

Sau khi ra trường, ông theo học một khóa huấn luyện biệt động quân, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn 42 biệt động quân “Cọp ba đầu rằn”. Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh), Chương Thiện, Sóc Trăng (Ba Xuyên), Bạc Liêu, Cà Mau (An Xuyên). Nhờ tài chỉ huy thiên bẩm và chiến đấu gan dạ nên ông được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận lên đến trung úy và được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 42.

Cuối năm 1966, ông từ biệt tiểu đoàn 42 biệt động quân đi làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 thuộc sư đoàn 21 bộ binh. Suốt năm 1967, ông với tiểu đoàn 1 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh vùng sông Hậu. Sau trận tổng công kích Mậu Thân, ông được thăng thiếu tá. Năm 1968, ông là người có nhiều huy chương nhất quân đội.

Năm 1970, ông được thăng trung tá và rời tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9 bộ binh. Năm 1972, ông được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An Lộc. Cuối năm 1973, ông được trở về chiến trường sình lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện.

Trận chiến cuối cùng

Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975.

Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu. Các đơn vị quân cộng sản tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cuối cùng ông bị bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975. Trước lúc bị hành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội vừa nêu ra không thì ông trả lời như sau:

Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm”.

Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về … và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa … mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.

NGUYEN HUY HUNG

Posted by SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH at 3:12 PM

http://dongdenhatrang.blogspot.com/2008/05/dai-ta-ho-ngoc-can.html

***

ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN - Nguyễn Văn Khậy

Để giúp quý độc giả và quý chiến hữu có thêm tài liệu đánh giá những chiến sỹ VNCH đã chiến đấu thế nào trong công cuộc chống Cộng bảo vệ tự do đến giờ phút cuối cùng... như trường hợp Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Bài do chính tác giả Nguyễn văn Khậy, viết và phục vụ dưới quyền Đại tá Hồ Ngọc Cẩn trong lãnh vực chuyên môn tỉnh Chương Thiện trước năm 1975.. (Bài viết được đăng trong Đặc San VÕ KHOA THỦ ĐỨC số 7 năm 2000).

Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện

Tôi, Nguyễn văn Khậy được lệnh thuyên chuyển từ Sở Điện cơ Cấp phát Ruộng đất (Land Distribution Computing Service chief) trực thuộc Bộ Cải Cách Điền Địa và Phát Triển Nông Ngư Nghiệp Sàigòn đến bàn giao chức vụ Trưởng Ty Điền Địa tỉnh Chương Thiện (Land Reform Service Chief in Province).

Ngày 23-6-1973, một tuần sau khi tôi nhận nhiệm sở, Đại tá Hồ Ngọc Cẩn từ Trung đoàn 15 Sư đoàn 9 Bộ Binh chuyển về thay Trung Tá Trần Duy Khang về hưu trí tại Saigòn (Phú Nhuận). Tỉnh Chương Thiện (thị xã Vị Thanh) nằm trong quân khu IV, của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Quân đoàn IV.

Suốt hai năm phục vụ dưới quyền Đại tá Hồ Ngọc Cẩn gồm các Ty sở chuyên môn và Hành chánh cũng như Quân sự, tôi còn nhớ mãi ghi ra đây như dòng tâm tư của người tỵ nạn còn âm hưởng những vươn rải đau thương, ẩn tàng tâm trí ngày đêm...
Ngưỡng mộ Anh Hồ Ngọc Cẩn như người anh cả trong quân sự và hành chánh.

Hồ Ngọc Cẩn sanh ngày 24 tháng 3 năm 1938 tại Cần Thơ. Tánh tình hiền hậu, giản dị, trầm tĩnh, ít nói. Anh xuất thân là Thiếu sinh quân (Đệ Nhất Quân Khu Gia Định).

Năm 1962, anh tốt nghiệp khóa Sĩ quan Đặc biệt với cấp bậc Chuẩn úy. Sau khi ra trường, Hồ Ngọc Cẩn theo học khóa huấn luyện Biệt Động Quân (BĐQ), rồi thuyên chuyên về phục vụ khu 42 Chiến thuật với chức vụ khiêm tốn: Trung đội trưởng. Lãnh thổ nầy gồm có các tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh), Chương-Thiện (Vị Thanh), Ba-Xuyên (Sóc Trăng), Bạc-Liêu và Cà-Mau (An Xuyên).

Ngũ hổ là:

Đại úy Hồ Ngọc Cẩn: Tiểu đoàn Trưởng 1/33
Thiếu tá Lư Trọng Kiệt: Tiểu đoàn Trưởng TĐ 42
Thiếu tá Nguyễn văn Huy: TĐT - TĐ 44 BĐQ.
Thiếu tá Lê văn Hưng: Tiểu đoàn trưởng TĐ 2/31
Đại úy Dương văn Trổ: Tiểu đoàn Trưởng TĐ 3/33.

Trong ngũ hổ nầy thì Thiếu tá Kiệt kém may mắn, tuẫn quốc năm 1967. Ngày 30-4-74 Thiếu Tướng Lê văn Hưng Tư lệnh Phó Quân khu IV tự tử, Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn. Duy còn Đại tá Dương văn Trổ làm Tỉnh Trưởng tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá), hiện định cư tại Houston Texas Hoa kỳ. Còn anh Nguyễn văn Huy ghi nhận chưa được.

Là sĩ quan gan dạ binh chủng BĐQ, anh Hồ Ngọc Cẩn tham gia hầu hết các trận đánh lớn nhỏ tại miền Tây. Đơn vị anh tìm và diệt địch trong mọi tình huống, một thời gây biết bao khiếp đảm cho giặc. Uy danh Đại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn Phó Tiểu đoàn 42 BĐQ, “Cọp Ba Đầu Rằng” vang lừng một thuở. Sau đó, anh nắm chức Tiểu đoàn Trưởng đánh trận để đời là tiêu diệt toàn bộ Tiểu đoàn 514 cơ động Việt cộng tại Mỹ Tho (Tiền Giang), bắn chết 320 tên, bắt sống 176 tên, chính chiến công nầy anh được Tổng thống Johnson tưởng thưởng huy chương và Thống tướng Wesmoreland thay mặt Tổng thống Mỹ trao tặng.

Năm 1972, nhờ lập chiến công tại chiến trường An Lộc anh là Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 15, SĐ 9 BB.
6/1973: vinh thăng Đại tá, làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng tỉnh Chương Thiện cho đến ngày mất nước.

Về địa lý tỉnh Chương Thiện gồm: 4 quận với 32 xã.

Xã Vị Thanh hay thị xã Vị Thanh, quận Đức Long là trung tâm Thị trấn tỉnh Chương Thiện thời bấy giơ, thuộc quân khu IV. Đây là khu trù mật thành công và hoàn chỉnh nhất thời Đệ I Cộng hòa của miền Nam Việt Nam. Nó cũng là “cái ổ’ của Việt cộng nằm vùng. Người ta thường nói Vị Thanh-Hỏa Lựu đi đôi với nhau, vì sự bình định phát triển nông thôn, đời sống dân chúng sung túc ruộng vườn của 200.000 nông dân, quân cán chính trú đóng phát triển đủ mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa v..v.

Trên bản đồ quân sự 1/25.000 thì tỉnh Chương Thiện nằm giữa trung tâm 3 tỉnh Cần Thơ, Ba Xuyên và Rạch Giá cách nhau 60 km đường chim bay từ mỗi tỉnh lỵ. Một con đường Liên tỉnh lộ 32 nối liền thành phố Cần Thơ - Vị Thanh dài 60 km, dẫn dọc theo Kinh xáng Xà-No vào thị xã Vị Thanh.

Dưới quyền Đại tá Hồ Ngọc Cẩn gồm nhiều sĩ quan cấp Tá, tôi nhớ xin ghi ra đây, sau 25 năm xa vắng cố hương, kẻ mất người còn !.

Thiếu tá Trịnh Tấn Tiếp: Quận trưởng quận Kiến Thiện.
Thiếu tá Nguyễn văn Bình: Quận trưởng quận Đức Long (Long Mỹ).
Thiếu tá Võ văn Phúc: Quận Trưởng quận Kiến Bình.
Thiếu tá (không nhớ rõ): Quận Trưởng quận Kiên Hưng.
Vị Tham Mưu Phó là Thiếu tá Võ văn Thời, anh cũng là người trực tiếp chỉ huy mặt trận tại ngã ba Vĩnh Tường đến 10 giờ sáng ngày 02-5-75, mới buông súng.

Xã Vĩnh Tường nằm trên Liên tỉnh lộ Cần Thơ-Vị Thanh, ngã ba tẻ vào Long Mỹ và ngả về Thị xã Vị Thanh. Áp lực địch rất mạnh quyết sống chết để cắt đứt tiếp viện từ Cần Thơ vô và từ Chương Thiện ra. Được biết chắc Thiếu tá Thời bị thương ở chân, nhưng nghe chạy được về Cần Thơ, nay không rõ tông tích ra sao?.

Hai vị Thiếu tá Tiếp và Phúc mỗi khi đi công tác tỉnh, Sư đoàn là kéo tôi theo vì trước Ty Điền Địa, dọc Kinh xáng Xà No là bãi đáp trực thăng. Ân tình thâm sâu khi hai anh còn phục vụ tại Tiểu khu và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh. Được biết ngày 30-4-75 cả hai anh về tỉnh bằng tác ráng bị B 40 Việt cộng phục kích trên sông rạch. Địa điểm ghi không được. Riêng Thiếu tá Nguyễn văn Bình còn độc thân, xuất thân từ Võ bị Đalạt, sau trận chiến ngày 02-5 thoát chạy về gia đình ở Cần Thơ. Và cũng vô âm bặt tín cho đến nay.

Riêng tại các xã, các vị xã trưởng bị xử tử tại địa phương. Tôi nhớ Xã trưởng Nguyễn văn Mây, xã Hỏa lựu (quận Đức Long), xã Ninh Bình (quận Kiến Thiện), Xã trưởng Vĩnh Tường anh Huỳnh văn Bon, xã Vĩnh Tường là đường huyết mạch, lối 3 giờ chiều Việt cộng thường phục kích công xa và quân xa, nên anh Bon rơi vào số phận hẫm hiu chung không ai lấy làm lạ. Đặc biệt Xã trưởng Vị Thanh, Ông Khưu văn Kỉnh thì an nhiên tự tại chỉ bị bắt giam tại ty Cảnh sát Chương Thiện như đa số khác. Cùng rất nhiều vị xã trưởng khác tôi không ghi ra hết được. Họ là những thành phần Hạ sĩ quan phục vụ tại địa phương xã nhà,  hy sinh vì chánh nghĩa quốc gia đến ngày chót. Ghi nhận để lịch sử vinh danh họ.

Đó là những ghi nhận đến 23-6-1975 khi chuyển trại tập trung tại xã Hỏa lựu.

a)Về phần hành chánh chuyên môn:

Phó Tỉnh trưởng Hành chánh: Đốc sự
Nguyễn Khắc Linh thuyên chuyển về Bộ Nội Vụ, Đốc sự Diệp Bửu Long, lên thay vào áp chót 30-4-75, đi cải tạo miền Bắc. Hiện tỵ nạn ở Mỹ.

b) Các Ty sở nội chánh:

Ty Hành chánh: Đốc sự Huỳnh Thông.
Ty Ngân khố: Đốc sự Khương Phục Hưng,
Ty Kinh tế: Đốc sự Lê Thanh Đào, sau về Ba Xuyên,
Ty Công vụ: Đốc sự Huỳnh văn Xuân (chuẩn úy đi cải tạo chung với tôi qua nhiều trại ở miền Nam).

Nhưng vào tháng 4/75 rất nhiều Đốc sự thuyên chuyển về phục vụ tại Vị Thanh ghi ra đây không được và không quan trọng lắm.

-Hội đồng Phát triển Bình Định Nông Thôn: Đại úy Trần Minh Hồng (Trưởng), Đại úy Phan Kim Mỹ, em vợ Đại úy Lê Ngọc Sơn ở Úc châu (khóa 14, chết) làm Phó và nhiều sĩ quan, nhân viên dân chính dưới quyền.

-Hội đồng Tỉnh: Y sĩ Thiếu tá Lâm văn Hai làm Chủ tịch. Quách Toàn Thiện (Cựu Trưởng Ty Kiến Thiết), HĐ Minh (quên họ), Trần văn Bạc (cựu Đại úy), Lý Thanh Mẩn làm Tổng thư ký v.v...

Một Tòa án thiết lập bên hông Ty Điền Địa, cạnh Hội đồng Tỉnh đã hình thành nhưng chưa có vị Chánh án đáo sở nhậm chức vụ.

c) Các Ty sở ngoại thuộc.

Ty Điền Địa: Trung úy Nguyễn văn Khậy (hiện tỵ nạn Úc châu).
Ty Công Chánh: kỹ sư Trương Minh Trung (tỵ nạn ở Mỹ).
Ty Kiến Thiết: Quách Toàn Thiện, ra ứng cử Hội đồng tỉnh chưa có người thay thế. Sau 1975 bạo bệnh chết tại xã Tân Túc, Tỉnh Long An, quê vợ.
Ty Miên vụ: Trung úy Danh Thọ.
Ty Chiêu Hồi: Đại úy Nguyễn Hiếu Nghĩa, đi "cải tạo" miền Bắc, vô âm bặt tín.
Ty Học Chánh: Không nhớ tên
Ty Thông Tin: Không nhớ tên
Ty Xã hội: Đốc sự Nguyễn Đình Vũ.
Ty Canh Nông: Kỹ sư Nguyễn văn Chúng.
Ty Thuế Vụ: Tham sự Đặng Ngọc Tợ.
Ty Cảnh Sát: Trung tá Võ văn Đường bị xử bắn.
Ty Điện lực: Trung úy Phan thế Hòa.

Tất cả Trưởng Ty sở tại sau ngày 02-5-75 dứt tiếng súng, lịnh qua loa kêu gọi trình diện, nhốt vô Ty Cảnh sát Chương Thiện, để sau đó phân bố đi cải tạo trong Nam hay ngoài Bắc. Riêng Ty Công chánh Nguyễn Tăng Hà thay Trung và Phan Thế Hòa, Điện lực được lưu nhiệm. Trương Minh Trung về Cần Thơ, hiện nay tỵ nạn ở Hoa kỳ. Còn Hà sau nầy bị đụng xe gắn máy chết 1987 tại cầu Bắc Cần thơ.  Những Ty sở chuyên môn trong tỉnh sau năm 1975, kẻ vượt thoát, kẻ chết không ghi ra được hết!.

Nói đến cái chết vinh danh của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện, tôi xin được bổ túc thêm: đứng đầu là các vị Quận trưởng, bắn hoặc bị giết tại địa phương; kế Trưởng Ty Cảnh Sát Chương Thiện: Trung tá Võ văn Đường; Đại úy Phạm văn Bé, Đại đội trưởng Đại đội Trinh sát tỉnh, cùng bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.

Các vị xã trưởng từng địa phương, họ là những anh hùng không chịu khuất phục trước uy vũ kẻ thù. Tổ quốc và quân sử mãi ghi danh họ. Còn một Đại đội Giang Thuyền của Đại úy Nguyễn văn Đầy, Đại đội trưởng; Đại úy Trần hữu Dinh, Đại đội phó đóng tại xã Vị Đức bên kia phi trường Chương Thiện. Hiện cả hai vị nầy ra sao?

d) Về lực lượng quân sự và Sư đoàn 21 Bộ Binh cận 30-4-75:

Các Trung đoàn 31-33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh, Quân khu IV rút ra bảo vệ phi trường Trà Nóc, Cần Thơ.

Một Đại Đội tân binh quân dịch tăng phái về đóng tại ICS (Ủy ban Kiểm soát Đình chiến Bốn bên) cạnh sân Tennis tỉnh, trên đường Gia Long đối diện Kinh xáng Xà-No. Lực lượng nầy bắn trả Việt cộng vào ngày 30-4 không cho tên Việt cộng nào vượt được sang cầu xi măng Lữ quán.

Trung đoàn 32 SĐ 21 Bộ Binh, còn trú đóng tại Bạc Liêu.

Trung đội bảo vệ dinh Tỉnh trưởng, những con gà cồ 60 ly trên lô cốt, gáy dữ dội từ 30-4 đến 10 giờ sáng ngày 02-5-75 mới chịu tắt tiếng.

Trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21, tôi quen biết Đại tá Nguyễn Hữu Kiểm, Tư lệnh phó Sư đoàn, vì ông hay ra đánh tennis với quí thương gia ngoài phố. Đại tá Lâm Chánh Ngôn Tham Mưu trưởng Sư đoàn. Khi Thiếu tướng Lê văn Hưng về nhậm chức Tư lệnh phó Quân khu IV dưới quyền Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Chuẩn tướng Mạch văn Trường về nhậm chức Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh. Sự kiện nầy gây bất bình cho hai vị Đại tá Nguyễn Hữu Kiểm và Đại Tá Lâm Chánh Ngôn, vì cả hai thâm niên quân vụ hơn tướng Trường sao đó...?. Hai vị rục rịch di chuyển đi thì cận 30-4 đen. Trước đó 2 tháng, Đại tá Lê Viết Điều trưởng phòng 4 Sư đoàn về hưu ở tỉnh Ba xuyên. Riêng Thiếu tá Phước (không rõ họ), “cận vệ” cho Đại tá Kiểm thường lui tới Ty Điền Địa chúng tôi, sau 30-4 cũng không ghi nhận tin tức các vị Tá trên.

Về phòng 3 Tiểu khu Chương Thiện, tôi quen Đại úy Trương Công Hạnh (phó), vị Trưởng ban Thiếu tá Tiệp đi nhậm chức Quận Trưởng. Đại úy Hưng (quên họ) chồng cô Nguyễn Thị Kim Yến làm tại Ty Điền Địa v.v...

Thiết đoàn 4 Chiến xa do Trung tá Trần Hữu Thành, Thiết đoàn trưởng Kỵ Binh đóng tại đầu cầu sắt, ngã ba vô Tòa Hành chánh, và nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy khác của Thiết đoàn cũng chung vận nước mà tôi chưa kịp ghi ra đây về lý lịch và sống còn của họ.

Mặc dù Tổng thống Dương văn Minh ban lệnh buông súng đầu hàng từ 10 giờ sáng 30-4-75, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê văn Hưng vẫn tiếp tục chiến đấu đến giờ phút chót và khi thấy thế cùng lực cạn đành rút súng tự sát, để bảo tồn khí tiết cấp chỉ huy.

Quân khu IV không còn. Khu chiến thuật mất liên lạc. Một tiểu khu và một số đơn vị vẫn tiếp tục chống trả VC quyết liệt đến sáng ngày 02-5-75. Đáng kể nhất tiểu khu Chương Thiện kềm địch mọi mặt tấn công vô tỉnh. Rồi đúng 10 giờ sáng mới buông súng.

Khi thế nước lâm nguy mới rõ mặt anh hùng. Và quân sử Quân lực VNCH hơn 50 năm sản sinh biết bao vị anh hùng Quân đội. Bên cạnh biết bao kẻ khiếp nhược trốn chạy ôm theo vợ con của cải, gia sản; thì tại miền Tây nước Việt bỗng: vươn lên những bậc anh hào lưu danh muôn thu. Đó là cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, cố Trung Tá Võ văn Đường, cố Đại úy Phạm văn Bé thà chết chớ không chịu sa vào tay giặc, bỏ đồn, bỏ lính, bỏ đơn vị đào nhiệm.

Xin một nến hương cho những chiến sỹ, đấng anh linh đã nằm xuống và mãi mãi cho những người đang chiến đấu vì lý tưởng Tự do, Dân chủ, Nhân quyền trên quê hương đau khổ Việt Nam được sớm vãng sanh.

Và cũng một lần nữa, tưởng nhớ AET Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Tiểu khu trưởng đã nằm xuống. Amen!

Riêng cầu chúc chị Cẩn và cháu trai sống hạnh phúc trong niềm tự hào tại Anaheim- California, Hoa kỳ.

Nguyễn Văn Khậy

***

Viễn Đông Phỏng Vấn Phu Nhân Cố Đại Tá Hồ-ngọc-Cẩn  ( Tuesday, August 10, 2010)

phỏng vấn phu nhân cố đại tá hồ ngọc cẩn

phỏng vấn phu nhân cố đại tá hồ ngọc cẩn

Kính Thưa Quý Chiến hữu.

Tối hôm qua ngày 8/8/2010 HCTSQ miền Nam CA (cá nhân tôi) nhận được điện thoại từ bà Quả Phụ Hồ Ngọc Cẩn nhờ tôi thông báo đến quý Chiến Hữu về lá thư mời của Ông Lê Nguyễn Thiện Truyền viếng thăm mộ phần của chồng bà là CTSQ Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vì bà là thành viên của Hội Cựu Thiếu Sinh Quân nên nhờ tôi thông báo đến quý chiến hữu. Nguyên văn trên điện thoại như sau:

1. Gia Đình của chúng tôi hoàn toàn không đồng ý, và chịu trách nhiệm về việc tổ chức viếng thăm mộ phần của Chồng, Cha, và ông Nội của chúng tôi là CTSQ ĐT Hồ Ngọc Cẩn do ông Lê Nguyễn Thiện Truyền tổ chức.

2. Chồng tôi CTSQ Đ/T Hồ Ngọc Cẩn cũng như nhiều biết bao chiến hữu khác trong QL/VNCH đều nguyện Vị Quốc Vong Thân cho Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hòa thân yêu, vì chồng tôi khuất đã lâu nên chúng tôi chỉ muốn Người được âm thầm an nghĩ thanh thơi như bao nhiêu chiến hữu khác của chồng tôi không màng danh lợi, và cũng không muốn bất cứ ai lợi dụng hay vinh danh tên tuổi của của người đã khuất.

Vì lá thư mời của ông Truyền có thể làm nhiều người hiểu lầm là gia đình của Chị Hồ Ngọc Cẩn đồng ý chuyện nầy và vì HCTSQ miền Nam CA là thành viên của LHCCHS nên tôi kính thông báo đến quý chiến hữu để giúp phổ biến rộng rãi để minh xác đến quý hội viên của quý hội Gia dình Chị H.N, Cẩn và Hội CTSQ miền nam CA không đồng ý và dính dáng đến vụ việc nầy.

Kính Thông Báo
Đại diện cho Gia Đình bà Quả Phụ Hồ Ngọc Cẩn
HT/ HCTSQ miền Nam CA
CTSQ Phan Ngọc Luong

***

Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn

hồ ngọc cẩn

Cái Bóng Của HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN

hay

Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn

Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.

Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh,thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường:Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện.

Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”.

Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:

- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.

Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.

Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.

Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.

Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :

“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).

Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.

Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.

Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:

Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.

Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.

Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.

Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:

- Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?

Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !

Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.

Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.

Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:

- Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?

- Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.

- Móng tay tao, đâu phải vuốt?

- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.

- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?

- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ?

- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?

- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.

Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.

Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.

Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!

Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:

“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.

Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:

” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “. Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :

- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.

Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.

Đến đây trận chiến chấm dứt.

Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.

Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.

Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…

Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :

- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.

Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:

“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.

Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.

Bấy giờ đúng 15 giờ.

Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:

- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?

Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.

Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:

- Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.

Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:

- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.

Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:

- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?

Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:

- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?

- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.

- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?

- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.

Quang cười ngạo nghễ:

- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?

Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?

Ghi chú :

Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.

Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.

Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.

Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.

Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:

“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”

Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.

***

Tưởng Nhớ Đại tá Hồ-ngọc-Cẩn Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân 

 

***

Sự Tích Thập Nhất Đại Thần Tướng Việt Nam Thời Cận Đại:

1/ Thần tướng Trình Minh Thế (1922 - 1955)
2/ Thần tướng Phan-quang-Đông (1929-1964)
3/ Thần tướng Trương Quang Ân và phu nhân (1932 - 1968; 1931-1968)
4/ Thần tướng Nguyễn Viết Thanh (1930 - 1970)
5/ Thần tướng Nguỵ-văn-Thà (1943-1974)
6 / Thần tướng Phạm Văn Phú (1929 - 1975)
7/ Thần tướng Lê Nguyên Vỹ (1933 - 1975)
8/ Thần tướng Trần Văn Hai (1929 - 1975)
9/ Thần tướng Lê Văn Hưng (1933 - 1975)
10/ Thần tướng Nguyễn Khoa Nam (1927 - 1975)
11/ Thần tướng Hồ-ngọc-Cẩn (1938-1975)

Thư-viện bồ-đề online@ Trúc-Lâm Yên-Tử

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc-Lâm Yên-Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site