lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin: (Blogs; Anh Ba Sàm; Cầu Nhật-Tân; Chu-Mộng-Long; Cu Làng Cát; Dân Làm Báo; Dân Oan Bùi-Hằng; Diễn-Đàn Công-Nhân; Diễn-Đàn Công-Nhân;Giang-Nam Lãng-Tử; Huỳnh-Ngọc-Chênh; Lê-Hiền-Đức; Lê-Nguyên-Hồng; Lê-Quốc-Quân; Mai-Xuân-Dũng; Người Buôn Gió; Phạm-Hoàng-Tùng;Phạm-Viết-Đào;Quê Choa VN)

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Chết Bởi Trung Cộng:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Vietnam Human Rights - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tòa Án Hình Sự Quốc Tế Về Việt Cộng và Trung cộng:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963 - 2013 :

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Thư Mục Các Trang Web - Weblinks:

 

 

Cây có cội, nước có nguồn. Toàn dân Việt-Nam ngàn đời ghi nhớ ân đức Quốc Tổ Hùng Vương

Tư-Tưởng Văn-Hóa Triết-Học Việt-Nam

Thư-Viện Bồ Đề Online_Thư Viện Hoa Sen

nơi hội tụ của những tâm hồn trăn-trở về nhân-sinh quan và vũ-trụ quan

đồng thời xiển-dương Chánh Tín_bài trừ Mê-Tín Dị Đoan 

Đem Đại Nghĩa Để Thắng Hung Tàn Lấy Chí Nhân Mà Thay Cường Bạo (bài số 3)

lịch sử việt nam, lich su viet nam, lichsuvn, lich su vn, trống đồng đông sơn

Trống đồng Đông Sơn, nền văn minh chói sáng 10 ngàn năm của tộc Việt. Bảo vật này hiện đang lưu trữ ở viện bảo Tàng Guimet, Pháp.

Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc biên khảo

Lời tựa: biên khảo này được thực hiện nhân tưởng-niệm 40 năm đại tướng quân Nguyễn-văn-Hiếu tuẫn-quốc 08-04-1975_08-04-2015 và tưởng-niệm 40 năm quốc hận 30-04-1975_30-04-2015.

Đây cũng là sự chia xẻ nỗi ưu tư của hội sử-học Việt-Nam đối với tiền đồ dân tộc đứng trước họa diệt vong qua hiệp định Thành Đô 1990. Mong rằng các bạn trẻ, những người thực tâm yêu nước thương nòi, ở trong hay ở ngoài chi bộ đảng cộng sản Tàu; những người Việt quốc gia chân chính cần nên có nhiều hơn nữa hành động đấu tranh cụ thể, có giá trị cao tấn công vào tư thế lãnh đạo, thực lực chính trị, ngoại giao, kinh tế của hai đảng cộng sản Tàu Việt để cứu dân cứu nước.

Người Việt có tinh thần yêu nước thương nòi của chúng ta hiện thời chưa có những phương tiện quân sự để chống giặc Tàu. Nhưng chúng ta có những lợi thế lớn về chính trị, nhân quyền, kinh tế, văn hóa, thông tin, v.v...để đánh giặc. Hãy khai thác tối đa những hình thức đó. Ngoài ra, các hình thức đấu tranh bạo động, bất bạo động, bất tuân dân sự v.v...là những giải pháp cần đi vào thực tế, hiệu quả hơn. Lưu ý, đấu tranh cho nhân quyền không phải là giải pháp tối ưu tiên. Nó chỉ có hiệu quả khi được thực hiện cùng một lúc với những hình thức đấu tranh khác!

Người Việt-Nam hãy đấu tranh chống giặc Tàu trong: Đa dạng, trí tuệ, liên tục và hiệu quả cao!

I. Nhìn lại lịch sử hơn 10 ngàn năm trước:

Từ hơn 5000 năm về trước, dân tộc bách Việt là một sắc dân có nền văn minh trồng lúa và ở gần nước (nước sông nước biển). Gọi tắt là nền văn minh lúa nước. Hay nền văn minh nước. Theo các nhà nghiên cứu William Meacham, David N. Keightley (The origins of Chinese Civilization), sử gia Phan-huy-Chú (Lịch triều hiến chương loại chí), nền tảng của nền văn minh này xuất phát từ hai nền văn minh Đông Sơn và Hòa Bình hiện diện ở vùng biển Đông Nam Á từ 10 ngàn năm trước Công nguyên. Do đó, lúa, nước là cơ sở phát triển vững chắc cho dân tộc bách Việt. Và nền tảng vững chắc này đã trở thành tập quán lâu đời của người dân Việt luôn sống gần, luôn bám sát nước, biển, đảo cho dù gian lao, khổ cực đến đâu, truyền thống này vốn không hề thay đổi cho tới thế kỷ thứ 21 này.

Đồng thời Việt Nam lại là trung-tâm nông-nghiệp lúa nước và công nghiệp đá, xưa nhất thế giới -ngưng trích- Việt Nam Trung-Tâm Nông-Nghiệp Lúa Nước Và Công Nghiệp Đá, Xưa Nhất Thế Giới, bác sĩ Nguyễn-thị-Thanh.

Đoạn trên nói về sự bắt đầu của tộc bách Việt. Từ đó đến năm 2015 tộc Việt hiện diện trên 10 ngàn năm ở vùng vịnh Bắc bộ cũng như châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên, sự hiện diện chưa thể được ghi là niên đại hay lịch của người Việt hay Việt lịch một cách chính thức. Việt lịch chính thức chỉ có thể ghi từ khi tộc Việt hội tụ lại thành lập nên vương triều của các vua Hùng. Do đó, theo niên đại từ thời vua Hùng đầu tiên đến nay năm 2015 Việt lịch được ghi là 4894 năm.

Trong khi dân tộc bách Việt có truyền thống sống ôn hòa, gần gũi, thân cận với nước, lúa, thì người Tàu (do các giống dân Tây Tạng, Mông cổ, Việt di cư hợp thành) từ hơn 2000 năm trở lại đây không hề có truyền thống đó. Đời sống của họ chỉ trên đồng cỏ và lưng ngựa. Do đó, với nước, hải đảo, biển, là một điều hoàn toàn xa lạ với họ. Do sống thường xuyên trên lưng ngựa, đồng cỏ, đã tạo nên giống dân Tàu rất hiếu chiến.

Người Tàu khi mới tập hợp thành quốc gia, triều đại quân chủ như Thương, Chu, Hạ v.v... lãnh thổ của họ rất nhỏ hẹp. Vua Thành Thang chỉ có 70 dậm đất -ngưng trích-, Văn vương chỉ có 100 dặm -ngưng trích- Lịch triều hiến chương loại chí, sử gia Phan-huy-Chú 1819. Khổng-tử hay Khổng-Khâu sinh năm 479 (có nơi ghi 551) trước Công nguyên, «...Nhà Thương dựng nước khoảng 2000 năm trước Công nguyên và bị bại trong tay nhà Chu hay Châu (Zhou), từ đó dân Tầu mới chính thức lập quốc» -ngưng trích- Thiên niên sử Thăng long thành, Trúc Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc. Vì đất đai nhỏ hẹp, họ có nhu cầu mở rộng lãnh thổ, hỗ trợ cho nhu cầu này là một trong những điều của ngũ thường là bình thiên hạ của Khổng-Khâu. Đây là căn bản lý luận để xâm lăng các nước khác. Đặc biệt là các nước thuộc tộc Việt.

Vào thời này, Khổng-Khâu đã lấy tư tưởng, văn hóa Việt để dạy dỗ cho người Tàu. Ngôn ngữ của Khổng-Khâu chê bai các triều đại vua Tàu (nhà Châu hay Chu) lúc đó là man rợ, hung dữ. Chỉ có văn hóa Việt mới có thể giáo hóa được thôi.

Do đó, văn hóa Việt, tộc Việt là bậc thầy lớn của dân Tàu từ hàng ngàn năm qua chứ không phải là Khổng-Khâu như truyền thuyết từ bấy lâu nay.

Do vào nền văn minh đã có từ 10 ngàn năm trước Công nguyên, nên nước ta đã có cung cách hành văn khác biệt với ngôn ngữ phương Bắc thể hiện qua bài Ca Việt. Nhắc tới Ca Việt thì không thể nào không nhắc tới bộ Luật Việt, là bộ Luật được sử dụng từ thời Hùng Vương cho đến khi cuộc chiến đấu của Hai Bà Trưng thất bại vào năm 43 sau Tây lịch. Sau khi Mã Viện chiếm lĩnh toàn cõi nước ta, y đã so sánh và thấy bộ Luật Việt hơn hẳn 10 điều bộ Luật Hán của nước Tàu, do đó dã tâm biến dân Việt thành dân Tàu càng gia tăng hơn bằng mọi hình thức. Như cải tổ Luật Việt, bắt bớ giam cầm hàng trăm Lạc Hầu Lạc Tướng, bắt buộc dân ta phải ăn mặc sinh sống như người Tàu v.v...

Đất nước Việt bị rơi vào nô lệ đã đặt những người yêu nước trước một hoàn cảnh cấp bách cần phải thích ứng ngay. Đó là phải có một phương pháp chống giặc vừa hữu hiệu về mặt vật chất cũng như nâng cao khí thế về phần tinh thần để duy trì tiềm lực dân tộc chờ đợi thời cơ thích hợp khởi nghĩa quét sạch quân xâm lược Tàu. Trong giờ phút tưởng chừng như tuyệt vọng khi Hai Bà Trưng thất bại và phải trầm mình xuống dòng Hát giang, một trong các nữ tướng của Hai Bà là Bát Nàn công chúa bị thương đã rút về một ngôi chùa xã Tiên La đồng thời qua đời tại đây. Và người nữ tướng cuối cùng này đã cùng với một số các nhà sư Phật giáo tìm cách ứng dụng vai trò của đạo Phật vào việc bảo vệ dân tộc chống lại chính sách Hán hóa dã man do Mã Viện áp đặt, trong bối cảnh đó Lục Độ Tập Kinh được ra đời.

Lục Độ Tập Kinh là một tập kinh được viết bằng tiếng Việt, đến ngày nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa truy tìm được danh tánh tác giả; quyển kinh này đã được bồ tát Khương Tăng Hội dịch sang tiếng Tàu vào khoảng thế kỷ thứ 3 tức khoảng bốn năm sau khi ngài sang Kiến Nghiệp năm 247 (do Ngô Tôn Quyền cai trị) truyền bá Phật giáo Việt Nam. Nội dung bao gồm sáu hạnh nguyện của Bồ tát và những câu truyện Phật giáo được lưu truyền từ thời Hùng Vương cùng những tư tưởng Việt tộc. Những hạnh nguyện này đã được tổ tiên ta trình bày dưới cái nhìn của người Việt, qua đó cho thấy một sự tổng hợp tuyệt vời giữa tư tưởng Phật Giáo và tư tưởng Việt đạo thời Hùng Vương, tạo nên một Ý Thức Dân Tộc rõ ràng nhất để đề kháng ngoại xâm.

Chữ Nhân trong Lục Độ Tập Kinh được nhấn mạnh ‘Ta thà bỏ mạng sống một đời chứ không bỏ chí lớn, quên mình để yên ổn quần sanh, đó là lòng NHÂN bao trùm trời đất vậy‘. Tư tưởng Lợi Lạc Quần Sanh Vị Tha Vô Ngã này không thể nào tìm thấy trong tư tưởng Ấn Độ cũng như Tàu cho được, nó xuất phát từ những người dân Việt có tấm lòng vô cùng thiết tha với đất nước và dân tộc khi thấy xứ sở đang rên siết dưới sự chiếm đóng của ngoại bang, chỉ có những tấm lòng nung nấu lý tưởng bồ tát cứu dân cứu đời giữa cơn lửa dữ mới có thể bộc lộ lên được như vậy mà thôi. Đây là lời hiệu triệu hùng hồn kêu gọi toàn dân vùng lên đấu tranh chống lại giặc Tàu xâm lược lấy lại Sơn Hà Xã Tắc nước Nam.

Tập Kinh còn đề cao Hạnh và Nguyện cho người dân Việt. Về Hạnh ‘Thà bỏ mình để giữ hạnh giữ giới‘. Sau thời Hai Bà Trưng, người dân Việt được hướng dẫn một cách sống mới để thích hợp với hoàn cảnh bị đô hộ, đó là cách sống cương quyết giữ gìn phong tục, tập quán cũng như tư tưởng, văn hóa Việt tộc, khẳng khái chối bỏ nền Hán hóa xâm lược, chẳng những vậy, dân ta còn tìm cách thuyết phục dân Tàu sống theo chữ Hạnh của người nước Nam, qua đó nhằm tháo bỏ dần dần sự kềm kẹp của bộ máy đàn áp của dân Hán. Người Việt không những tiến hành đấu tranh võ trang không thôi, mà còn chủ trương đấu tranh chính trị thu phục nhân tâm ngay chính hàng ngũ của kẻ thù, đây là một hành động vô cùng khôn ngoan mà vào thời bấy giờ ít có dân tộc nào có thể thực hiện được. Cụ thể là 60 năm sau, người Việt đã làm cuộc khởi nghĩa đầu tiên là Tượng Lâm làm sụp-đổ hệ thống cai trị của người Tàu với sự xuất hiện của Chu Phù Sĩ Nhiếp.

Về Nguyện thì đề cao tinh thần ‘Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than‘. Tinh thần này nhằm kêu gọi mọi người can đảm lao vào cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung với tinh thần Bồ Tát Đạo, là tinh thần xã bỏ thân mạng để cứu hộ dân chúng và đất nước khỏi nạn lầm than. Đây chính là Khuôn Vàng Thước Ngọc cũng như một trong những điểm mấu chốt hình thành Ý Thức Dân Tộc trong một bối cảnh hoàn toàn mới, bối cảnh đất nước bị giặc chiếm đóng, đồng thời làm điểm tựa cho sự đề kháng của dân ta chống ngoại xâm phương Bắc hàng mười mấy thế kỷ, và tinh thần này vẫn còn tiếp tục tồn tại cho đến tận ngày hôm nay.

Ngoài Lục Độ Tập Kinh còn có Cựu Tạp Thí Dụ Kinh và Tạp Thí Dụ Kinh được lưu hành rộng rãi trong dân gian đã đóng góp phần lớn vào nỗ lực giữ gìn độc lập của dân Việt thời bấy giờ. Sự tích Rồng Tiên được ghi chép trong Lục Độ Tập Kinh sau năm 43 của thế kỷ thứ nhất và được phổ biến lần đầu tiên vào năm 138 tức thế kỷ thứ hai, chứ không phải như có người lầm tưởng rằng câu chuyện trên được viết lại trong Lĩnh Nam Trích Quái vào thế kỷ thứ…14.

Quyển Lục Độ Tập Kinh hiện còn ghi trong Đại Tạng Kinh Tàu ở số 152, Đại Tạng Kinh được dịch sang tiếng Việt và hoàn thành ấn tống năm 2008 bởi Tăng thống Thích Tịnh Hạnh.

II. Lịch-sử Việt-Nam thời cổ và trung đại:

Trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, có một điểm đặc biệt cần phải lưu ý, đó là, vị lãnh đạo cuộc đấu tranh này lại là người phái yếu, và ở vào một thời quan điểm trọng nam khinh nữ đã bao trùm toàn bộ các chế độ phong kiến. Phải nói đây là một cuộc cách mạng không tiền khoán hậu mà tổ tiên ta đã thực hiện vào lúc đó cũng như đã thành công đưa lên quan niệm Bình Đẳng Giữa Người và Người cách đây hơn 2000 năm lịch sử.

Đứng trước nạn ngoại xâm của nước Tàu, người dân Việt không phân biệt tầng lớp, xuất xứ, cũng đều có bổn phận đứng lên đấu tranh một cách bình đẳng, những hành động đó đều đáng được trân trọng và tán dương. Trong Việt Sử Tân Biên, tác giả Phạm Văn Sơn ở trang 182 đã viết như sau về Hai Bà Trưng : «Nhiều sử gia chép sự nghiệp của bà Trưng cho rằng động lực cuộc khởi nghĩa Mê-Linh là việc thù chồng. Thật là biến cải một hành động ái quốc ra một chuyện tư tình cá nhân nhỏ mọn (từ Việt Nam Sử Lược, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, Đại-Nam Quốc-Sử diễn ca v.v..của mấy nhà viết sử hiện thời còn có điều lầm lạc đáng tiếc này huống hồ với các sách Đại-Việt Sử-ký, Đại-Việt Sử-ký toàn thư, Khâm-định Việt-sử là những cuốn sử biên chép đã lâu đời thiếu sót tinh thần khoa học). Và như vậy các sử gia kể trên đã vô tình phủ nhận ý thức và giá trị của cuộc cách mạng phản đế đầu tiên của dân tộc Việt Nam và cái nghĩa khí cao cả của các vị anh thư nữ-kiệt đã lãnh đạo cuộc cách mạng đó». Ở một đoạn khác trang 183 viết «Vua Tự Đức khi coi Lịch sử nước nhà về đoạn khởi nghĩa của hai bà Trưng phê : Hai Bà là hạng quần thoa mà khởi lòng anh hùng làm việc nghĩa chấn-động đến triều-đình nhà Hán. Tuy rằng yếu thế, không gặp thời, nhưng cũng đủ hưng-khởi lòng người để tiếng thơm trong sử-sách». Trang 184 tác giả Phạm Văn Sơn viết «Tóm lại hai Bà khởi-nghĩa là vì quyền-lợi dân-tộc…còn việc báo thù cho chồng chỉ là việc xảy đến sau…Nếu lầm lẫn sự kiện lịch sử này thì thật là đáng tội với vong linh của hai vì nữ-kiệt» -ngưng trích-. Trang 185 (VSTB), ông Nguyễn Văn Tố nhân viên Trường Viễn Đông Bác Cổ viết: «Bổn phận của ta là phải tôn hai bà Trưng lên bậc liệt nữ thứ nhất của nước nhà và ghi năm 40-43 vào Niên-biểu chính. Mỗi khi chép sử hay dạy sử, nghĩa-vụ của ta là phải nhớ lấy rằng trừ thời lập quốc ra không kể, nước Nam ta đã có tinh-thần tự chủ ngay từ hồi hai bà Trưng tức là từ đầu thế-kỷ thứ nhất, chứ không phải từ đời nhà Tiền-Lý về thế kỷ thứ 6».

Tổ tiên dân Việt với một Ý Thức Dân Tộc vững vàng cũng như tinh thần bảo vệ Độc Lập Quốc Gia can trường, nên các triều đình phương Bắc đã không yên ổn trong việc thi hành các chính sách cai trị xứ ta vì phải đối phó với nhiều cuộc khởi nghĩa khác nhau vùng lên chống lại họ; từ Tượng Lâm, Khu Liên, Bố Cái Đại Vương, Lý Miễu Giao Châu cho đến chiến thắng Bạch Đằng Giang của Ngô Vương Quyền vào năm 938 đã giải thoát hẳn nước ta khỏi ách đô hộ của người Tàu trong gần 10 thế kỷ.

Ý Thức Dân Tộc đã biểu hiện cụ thể ở chỗ «Ta thà bỏ mạng sống một đời chứ không bỏ chí lớn, quên mình để yên ổn quần sanh, đó là lòng nhân bao trùm trời đất vậy ; Thà bỏ mình để giữ hạnh giữ giới ; Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than». Những Nhân, Hạnh và Nguyện này được sưu tập và kết tụ lại vào các quyển kinh nói trên và nó đã là nền tảng tư tưởng vững chắc, xuyên suốt trong việc chỉ đạo dân tộc Việt đề kháng lại sự đồng hóa dã man của người Tàu khi chúng muốn áp đặt lên dân ta vào những năm đầu của thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên và hàng ngàn năm sau này trong việc dựng nước cũng như giữ nước.

Độc Lập Tự Chủ Quốc Gia đã được xác định ngay từ năm 43 sau Tây lịch khi Hai Bà Trưng đánh bại quân nhà Hán và đã lên ngôi Vua để trị vì xứ sở cũng như tiếp tục lãnh đạo dân Việt chống giặc ngoại xâm.

Vào những năm đầu sau Tây lịch cho đến khoảng thế kỷ thứ 5 Niềm Tin tôn giáo lồng trong Ý Thức Dân Tộc và đã được xử dụng để đối kháng lại sự Hán hóa dã man của thế lực xâm lược Tàu cũng như khuyến khích sự quật khởi dân tộc. Các nhà sư Phật giáo đã đưa ra và cho lưu truyền tư tưởng Phật giáo thần quyền. Nghĩa là sự mong ước có được những vị Phật thật, bằng xương bằng thịt của Việt Nam. Những vị Phật này có đầy đủ phép thần thông biến hóa để trợ lực dân ta vùng lên đánh đuổi kẻ thù lấy lại xứ sở. Và tư tưởng này đã thành công. Trong những thế kỷ đầu tiên người Tàu đã không yên ổn khai thác tài nguyên nhân vật lực của xứ Việt, chúng phải vất vả đối phó với những cuộc khởi nghĩa kéo dài cho đến lúc Lý Nam Đế thành công vào khoảng thế kỷ thứ 5. Từ khoảng thế kỷ thứ 5 trở về sau tư tưởng Phật giáo Thiền tông đã dần dần thay thế PG thần quyền qua việc xuất hiện 6 lá thư của Lý Miễu Giao Giâu cũng như các dòng thiền Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và sau này là dòng thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập đã là những thí dụ điển hình. Tư tưởng PG Thiền tông chủ trương là trở lại khai thác sức mạnh của chính tâm linh của mình. Qua sự thay đổi này đã gởi gấm tâm tư của dân tộc là tự mình đứng lên giải quyết vấn nạn của đất nước mà không phải nhờ vả ai cả. Tiền nhân nước Nam đã thành công với chiến thắng Bạch Đằng Giang của Ngô Quyền vào năm 938.

III. Lịch-sử Việt-Nam thời trung cận đại:

Ý Thức Dân Tộc với tinh thần tự lập tự chủ lại một lần nữa là nền móng rất tốt cho việc kiến tạo nên các triều đại độc lập như Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê (Lê Thái Tổ) và sau này làm nên chiến thắng đánh tan 20 vạn quân Thanh của Quang Trung Hoàng Đế. Nhưng không may, vì xa rời những lời răn dạy của tổ tiên để lại nên nước Việt Nam rơi vào vòng lệ thuộc thực dân Pháp 80 năm, sau đó là cuộc chiến chống xâm lược Trung cộng với sự tiếp tay, làm nội gián của đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến 2015 vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt.

Gần giữa thế kỷ 20, đức vua Bảo Đại ra Tuyên cáo Việt-Nam độc lập vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 khai sanh nước Việt-Nam độc-lập tự-cường thoát hẳn vòng nô lệ của chế độ thực dân Pháp sau 70 năm. Chính phủ Trần-trọng-Kim đã cố gắng từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 6 tháng 8 năm 1945, hết lòng xây dựng một chính phủ tự do thực sự bằng những đạo luật được ghi nhận là rất phóng khoáng và tiến bộ vào thời điểm đó và những hành động giúp nước rất tích cực -ngưng trích- Hội sử-học Việt-Nam tuyên cáo 40 năm quốc hận 30-04-1975_30-04-2015, Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc.

Từ hàng ngàn năm trước, Phật giáo Việt-Nam đã từng đồng hành với dân tộc Việt để chống giặc Tàu, nổi bật nhất là những vị vua Phật tử như đức vua Lý Thái Tổ, Phật hoàng Trần-nhân-Tông, vị tướng Phật tử như Tuệ trung thượng sĩ, Hưng-Ninh vương Trần-quốc-Tung. Nhà quân sư, chiến lược đại tài Ức trai Nguyễn-Trải, Trúc Lâm đệ tứ tổ. Quân sư chiến lược cho Quang Trung hoàng đế là danh sĩ Ngô-thời-Nhậm và cũng là Trúc Lâm đệ ngũ tổ v.v...

Thế nhưng vai trò hộ quốc an dân của Phật giáo Việt-Nam đã bị mai một trong thế kỷ 20, 21. Nhất là từ trước và sau cuộc chính biến lật đổ chế độ Việt-Nam Cộng-Hòa thứ nhất đưa đến việc tổng thống Ngô-đình-Diệm, cố vấn Ngô-đình-Nhu bị giết chết.

Các cuộc đấu tranh của Phật giáo được gọi là «đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo» -ngưng trích- do Tổng hội Phật giáo Việt-Nam phát động chống chính phủ Cộng Hòa thứ nhất của tổng thống Ngô-đình-Diệm và đưa đến việc Hòa thượng Thích Quảng Đức bị thiêu chết ngày 11-06-1963. Thực chất đều nằm trong chủ trương chiến lược «Nam suy Bắc thịnh» - ngưng trích- Mao đặt vấn đề người kế nhiệm họ Hồ (Huỳnh Tâm), do Mao trạch Đông ra lịnh, cục tình báo Hoa Nam và cục địch vận Hà Nội cùng thi hành để xâm lược Việt-Nam. Vô tình hay cố ý cục tình báo Hoa Kỳ lại là một động lực chính để lật đổ chính phủ dân cử Ngô-đình-Diệm đưa đến cái chết của Tổng thống và cố vấn, bào đệ Ngô-đình-Nhu.

Sau ngày 01-11-1963, Phật giáo Việt-Nam tiếp tục là công cụ phục vụ cho cục tình báo Hoa Nam Trung cộng trong việc quậy phá chính thể VNCH đưa đến cuộc thất trận ngày 30-04-1975 của hàng ngủ người Việt không cộng sản. Sau khi Trung cộng chiếm được VNCH, Phật giáo Việt-Nam (một số nhỏ người từng chống chính phủ VNCH thời 63-75) bị cả Hoa Kỳ và Việt cộng bỏ rơi, để binh vực cho quá khứ chạy theo Việt cộng chống phá chính phủ VNCH, họ quay sang chống phá kịch liệt Công giáo một cách vô lý. Những trang web giả mạo Phật giáo để chống phá Công giáo một cách vô lý đó gồm: thuvienhoasen.org, giaodiemonline.com, sachhiem.net v.v...Sở dĩ chúng tôi gọi những trang web vừa rồi là giả mạo Phật giáo là vì nội dung của họ phần lớn đăng tải là những bài viết đả kích Công giáo, cũng như những tin tức có lợi cho Việt cộng. Họ có đăng những bài viết đủ loại về Phật giáo, nhưng đó chỉ là tấm khiên che cho những bài viết khác không phù hợp với nội dung cần chuyển tải của giáo lý nhà Phật. Nội dung đăng tải về Phật giáo không làm cho người Phật tử giác ngộ, trái lại còn đưa một số Phật tử Việt-Nam vào sự mê tín dị đoan cũng như xa rời, bỏ mặc vận nước nổi trôi cho giặc Tàu thao túng cướp đoạt.

Nhất là về vụ thầy Thích Quảng Đức bị thiêu chết chứ không phải là tự thiêu vì đạo pháp. Thế mà, họ cứ nói và viết là Hòa thượng Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân còn để lại trái tim bất diệt. Đây là điều truyền tụng sai lầm về những sự việc không hề có. Phương thức làm việc như vậy tự họ đã chứng minh không phải là người Phật tử chân chính. Rất là đáng tiếc !

Về trái tim bất diệt của HT Thích Quảng Đức, nếu là có thật thì tại sao CSVN không dám trưng bày ra công chúng để cho mọi người có thể chiêm ngưỡng, phụng thờ v.v...Lưu truyền những điều không có thật, không gọi là truyền bá sự mê tín dị đoan thì gọi là gì?

Mong rằng những người chủ trương thuvienhoasen.org, giaodiemonline.com, sachhiem.net hãy quay về với trung đạo đệ nhất nghĩa đế của đức Điều Ngự đã để lại.

Lưu ý, đoạn văn trên chúng tôi viết ra với sự ưu lo cho tiền đồ của Phật giáo. Đây là những nhận định khách quan chứ không phải là sự chỉ trích !

IV. Lịch-sử Việt-Nam thời hiện đại:

Năm 1990, hai đảng Trung cộng (Giang Trạch Dân) và Việt cộng (Nguyễn Văn Linh) ký kết hiệp định Thành Đô, Tứ-Xuyên với điều ước là Việt-Nam sẽ trở thành tỉnh quốc của Bắc Kinh vào năm 2020. Sự Hán hóa đã và đang tiến hành trong im lặng, người dân Việt-Nam sống trong nước không hề biết, không hề nghĩ đến sự kiện này sẽ dẫn dắt tương lai của họ đi tới đâu.

Trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, đầu thế kỷ thứ 21, các sự đấu tranh cho tự do tôn giáo ngày càng dâng cao, lộ rõ ý chí Niềm Tin sẽ tất thắng bạo lực.

Tín đồ các tôn giáo, kẻ trước người sau chứng tỏ Niềm Tin hữu thần của mình trong việc đối đầu với vô thần csvn để đòi Tự Do Tôn Giáo Thực Sự cho phép ta kết luận rằng rồi đây Niềm Tin Hữu Thần, Niềm Tin vào Ý Thức Dân Tộc Sẽ Chiến Thắng Vô Thần Cộng Sản. Vấn đề còn lại là làm thế nào để kết hợp những nỗ lực đó một cách đồng bộ hơn để đẩy csvn vào thế bắt buộc phải lùi, nhượng bộ và mất quyền. Cộng sản Việt Nam sợ nhất là việc các Tôn Giáo kết hợp với nhau trong một trận tuyến để đấu tranh vì khi áp lực của các Tôn Giáo cùng quần chúng đã đủ cộng với áp lực của quốc tế thì csvn tất phải thua cuộc.

Năm 2002 đã bùng lên biến cố cộng sản Việt Nam ký kết các văn kiện về biên giới và lãnh hải với Trung cộng làm rõ nét hơn hành động phản dân hại nước của tập đoàn chuyên chính này, đặc biệt là đối với những ai đã phục vụ cho guồng máy đảng cs trong mấy mươi năm qua. Đây là một hành động bán nước cầu vinh mà Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương và Phan Văn Khải không thể chối cãi được, vì vậy đã có rất nhiều sự lên án, cũng như phản đối đến từ những thành phần dân chúng Việt Nam khác nhau từ trong cho đến ngoài nước. Một trận tuyến mới vừa hình thành mà những người Việt tự do chúng ta cần khai thác một cách cẩn thận sao cho hợp lòng dân thuận ý trời, đặc biệt là hướng sự vận động này về tập thể Quân đội Việt cộng, đang là cột trụ bảo vệ chế độ.

Những sự kiện đảng Việt cộng phản quốc bán nước cho Trung cộng đã được Wikileak. Đặc biệt nhà biên khảo Huỳnh-Tâm tiết lộ một cách chi tiết qua biên khảo Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990.

Ngày 21-06-2015, Trương-tấn-Sang chủ tịch nhà cầm quyền Việt cộng ký kết ở Bắc Kinh 10 văn kiện đầu hàng toàn diện đảng cộng sản Tàu. 10 văn kiện này mang tên «Tuyên Bố Chung “Đối Tác Hợp Tác Chiến Lược Toàn Diện. Có nghĩa là đầu hàng toàn diện, bàn giao toàn diện các lãnh vực chiến lược của đất nước cho giặc Tàu.

Từ những sự kiện lịch sử nêu trên, người Việt-Nam ở trong và ngoài nước cần phải lưu tâm đó là sự chỉnh đốn hàng ngủ dân tộc để sẳn sàng xung trận lật đổ chế độ Việt cộng vào những thời điểm thích hợp trong tương lai. Công cuộc đấu tranh của dân Việt chống lại cộng sản Việt Nam đã hơn 50 năm qua mà vẫn chưa đạt được mục đích sau cùng vì những kẻ nội thù vẫn còn hiện diện ở trong hàng ngũ người Việt Tự Do của chúng ta. Ngày nào những kẻ nội thù này vẫn hiện hữu thì ngày đó dứt khoát không thể nào nói tới việc chấm dứt được chế độ cộng sản tại Việt Nam.

Ngoài ra, còn một kẻ nội thù khác cũng quan trọng không kém đó là Ba Loại Độc Dược : Tham Lam, Giận Dữ và Ngu Muội. Tham Lam thì lấy San-Sẻ, bố thí để chữa trị ; Giận Dữ thì lấy Tình Thương mà dập tắt ; Ngu Muội thì dùng Sáng Suốt làm soi sáng. Chính Ba Loại Độc Dược này là thủ phạm của tất cả sự đau khổ trên thế gian nên nó phải bị tiêu diệt. Hãy mạnh dạn tiêu diệt nó bằng một cuộc Cách Mạng Tự Thân Triệt Để Trong Tâm Hồn Của Mỗi Người, có làm được như thế thì mới hoàn toàn triệt tiêu được chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam cũng như những hình thức độc tài khác, nếu chưa làm được như vậy thì dầu có làm nhiều việc gọi là «đấu tranh» đi nữa cũng chỉ là vô ích!

Ngày 02-05-2014, Trung cộng thiết lập giàn khoan hd981 ngay trong vùng lãnh hải Việt Nam, cũng như tung hàng chục sư đoàn bộ binh, chiến xa hỏa tiễn, tàu chiến vào biên giới phía Bắc. Sở dĩ Trung cộng có thể thiết lập hd981 ngày trong lãnh hải Việt-Nam là do Nguyễn-phú-Trọng, chi bộ trưởng chi bộ đảng cộng sản Tàu ở Việt-Nam (tổng bí thư đảng cộng sản Việt-Nam) đã tiếp tay đắc lực. Do đó hội sử-học Việt-Nam mới gọi là trò hề đóng kịch giữa hai đảng Việt cộng và Trung cộng.

Ngày 09-03-2015, Vương-Nghị, ngoại trưởng Trung cộng tuyên bố, «biển Đông là sân nhà của Trung cộng» -ngưng trích- Trung cộng nói biển Đông là ‘sân nhà’, Vc chưa lên tiếng, Voa tiếng Việt; Lo sợ sự phản ứng bất lợi của dư luận quốc tế qua tuyên bố của Vương-Nghị, đại sứ Tàu cộng ở Ấn-Độ là Lạc-ngọc-Thành nói rằng: 'không có vấn đề gì về quyền tự do hàng hải và an ninh ở Biển Đông' -ngưng trích- Trung cộng: Biển Đông 'vẫn ổn định', Voa tiếng Việt. Đây là lời tuyên bố của những kẻ mộng du.

Đảng cộng sản Tàu hãy biết rằng, những lãnh thổ, tỉnh nước Tàu như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam v.v...thực tế lịch sử không hề của người Tàu. Ngay cả nước Tây-Tạng, Mông-Cổ. Ngày nay, những vùng đất đó nằm trong bản đồ nước Tàu là do các thời vua chúa trước đây, thời cận đại là do Mao-trạch-Đông đảng cộng sản Tàu đi cướp về mà thôi.

Lãnh thổ, lãnh hải của nước Tàu, tính đời nhà Thanh chỉ tới đảo Hải Nam nằm trong vịnh Bắc Việt là tận cùng.

Lãnh thổ Việt-Nam bắt đầu từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, còn lãnh hải Việt-Nam, căn bản tính đến thời nhà Nguyễn Gia-Long gồm cả biển Đông. Biển Đông bao gồm vịnh Bắc bộ, đảo Bạch long vĩ, hai quần đảo Hoàng sa, Trường sa, đảo Phú Quốc, đảo Côn Sơn. Chủ quyền Biển Đông (hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa) thuộc Việt-Nam Cộng-Hòa (1954-1975) được quốc tế công nhận.

Hơn thế nữa, «...năm 1998 đoàn khảo cổ của viện Smithsonian với sự hợp tác của người địa phương đã tìm thấy các dụng-cụ bằng đá cổ tới 800.000 năm tại vùng tự-trị Chuang sát biên-giới Việt-Hoa. Vị trí này không xa bờ Vịnh Bắc-Việt bao nhiêu. Khám phá này rất có thể kéo lùi thời-đại Đồ Đá Việt-Nam hàng mấy trăm ngàn năm xa hơn về quá khứ chăng ? Dù sao sự kiện thật bất ngời và làm...đảo lộn khoa-học» -ngưng trích- Vịnh Bắc Việt_Địa lý & Chủ-quyền hải-phận, tác giả Vũ-hữu-San.

Biển Đông hàng 10 ngàn năm, 800 ngàn năm xưa (thời đại Đồ Đá) vốn thuộc của dân tộc Việt-Nam luôn là nơi thanh bình thịnh vượng. Nhưng biển Đông ngày nay đã không còn bình yên, luôn bị xáo trộn do sự đe dọa bởi chính sách bành trướng lãnh thổ của đảng cộng sản Tàu từ 95 năm qua.

Tuyên Bố Của Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ Việt Nam ngày 22-01-2015 gia tăng độ trầm trọng của vấn đề khi tố cáo Trung cộng đã và đang xây một loạt các căn cứ quân sự để khống chế biển Đông trên quần đảo Trường-sa cướp của dân tộc Việt-Nam.

V. Lịch-sử đoạn kết chưa kết thúc:

Nhân dịp tưởng-niệm 40 năm quốc hận Hội sử-học Việt-Nam long trọng kêu gọi người Việt-Nam ở trong và ngoài nước:

1/ Mọi người Việt-Nam trong và ngoài nước hãy thức tỉnh, cảnh giác tối đa trước những hành động mở cửa cho giặc Tàu vào nhà của đảng Cộng sản Việt-Nam.

2/ Nhanh chóng thông tin, tố cáo sự phản quốc, tàn hại dân tộc Việt Nam của đảng Việt cộng.

3/ Tích cực hơn nữa tố cáo tội ác chiến tranh, nhân quyền, tôn giáo của Việt cộng và Trung cộng đến dư luận quốc tế.

4/ Người Việt Nam trong nước hãy âm thầm kết hợp nhân sự, thu gom phương tiện, thiết lập chiến khu khắp nơi để chống giặc Tàu trong hiện tại và tương lai.

5/ Cầm vũ khí chiến đấu chống bạo quyền Việt cộng bán nước và Trung cộng cướp nước Việt Nam.

6/ Người hải ngoại đẩy mạnh việc ngưng gởi tiền, ngưng du lịch, ngưng mua thực phẩm từ Việt Nam và Trung cộng.

7/ Tham gia, yểm trợ cho Lực Lượng Dân Tộc Quật Khởi cũng như cho trang web http://www.danhgiactau.com

8/ Các tổ chức cựu Quân Cán Chính VNCH, Tổng Hội Cựu Tù Chính Trị VNCH hãy tích cực đem công lý đến cho 165.000 tù chính trị Việt-Nam Cộng-Hòa đã bị Việt cộng giết chết trong các trại tù “cải tạo“ bằng cách tiến hành truy tố chế độ CS tại Việt-Nam là tội phạm chiến tranh trước Tòa án hình sự quốc tế ở La Haye Hòa-Lan, Tòa án Nhân quyền Âu châu Strasbourg Pháp quốc.

9/ Tích cực tố giác, vạch mặt chỉ tên, cô lập các thành phần Việt cộng nằm vùng, gián điệp Trung cộng trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Cũng như những thành phần tuyên truyền làm lợi cho Vc và Tc. Gởi hồ sơ, chứng tích tội phạm của họ đến các cơ quan công lực sở tại cũng như FBI, NSA cũng như Interpol.

10/ Tích cực phản đối Hiệp định Vạn Niên Vịnh Bắc Bộ do tên gián điệp tàu Hồ Tập Chương tức Hồ chí Minh lén lút dấu dân tộc Việt-Nam ký kết với Trung cộng năm 1957; cũng như Hiệp định Thành Đô 1990 do Việt gian Nguyễn Văn Linh ký ở Tứ Xuyên Trung cộng năm 1990.

Ý nghĩa thật sự của việc Đem Đại Nghĩa Để Thắng Hung Tàn Lấy Chí Nhân Mà Thay Cường Bạo là ở nơi đây.

Trân trọng kính chào trong tinh thần liên kết chống giặc Tàu xâm lược.

(Viết xong ngày Quốc Tế Nhân Quyền cuối cùng của thế kỷ 20, 10 tháng 12 năm 2000, hiệu đính lần thứ ba năm 2009, hiệu đính lần thứ tư tháng 05, 12 năm 2014. Viết lại lần thứ năm tháng 04 năm 2015).

Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc biên khảo

@@@

Vì Danh-Dự Dân-Tộc, Chống Trung cộng
Vì Tương-Lai Đất Nước Chống Việt cộng

@@@

Thư mục :

1/ Tư Tưởng Việt Nam, Nguyễn Đăng Thục, nhà sách Khai Trí xb 1964, Sài Gòn Việt Nam.

2/ Việt Sử Tân Biên, Quyển I, tác giả cố Ðại tá Phạm Văn Sơn, xb 1956 tại Việt Nam, nhà xuất bản Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ 1990.

3/ Vịnh Bắc Việt_Địa lý & Chủ-quyền hải-phận, tác giả Vũ-hữu-San xuất bản 2004, California Hoa Kỳ

4/ Việt-Nam suối nguồn văn minh nhân loại, tác giả Du Miên Lê-thanh-Hoa xuất bản 2008, California Hoa Kỳ

5/ Việt Nam Trung-Tâm Nông-Nghiệp Lúa Nước Và Công Nghiệp Đá, Xưa Nhất Thế Giới - http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_nguyenthithanh/vntrungtamnongnghiepluanuoc1.htm

6/ Phật giáo Việt Nam hộ quốc an dân luôn đồng hành cùng dân tộc nhưng không đồng hành với cộng sản, Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc, 03-2014 - http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-275_4-5355_5-10_6-1_17-159_14-2_15-2/

7/ Toàn Thư Phật hoàng Trần-nhân-Tông, tác giả Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc

8/ Mao đặt vấn đề người kế nhiệm họ Hồ (Huỳnh Tâm) - http://huynh-tam.blogspot.ru/2013/11/huynh-tam_2815.html

9/ Bản Lên tiếng Thứ  59_Hồ chí Minh Và đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Sạch Biển Đông Cho Trung Cộng  Từ Hơn 50 Năm Qua! http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-287_4-5673_15-2/ Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc

10/ Bản Lên Tiếng thứ 46_Việt Nam Là Nước Giam Giữ Tù Chính Trị Nhiều Nhất Trên Thế Giới Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc

11/ Hội sử-học Việt-Nam tuyên cáo 40 năm quốc hận 30-04-1975_30-04-2015, Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-6137_15-2/

12/ Tuyên Cáo Phản Đối Tuyên Bố Chung “Đối Tác Hợp Tác Chiến Lược Toàn Diện” Giữa Việt Cộng và Trung Cộng ngày 21-06-2013 tại Bắc Kinh, Trung cộng, Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-44_4-4859_5-4_6-10_17-79_14-2_15-2_10-1363_12-1/

13/ Trung cộng nói biển Đông là ‘sân nhà’, Vc chưa lên tiếng - http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-noi-bien-dong-la-san-nha-nhung-viet-nam-chua-len-tieng/2680280.html

14/ Trung cộng: Biển Đông 'vẫn ổn định' - http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-tuyen-bo-bien-dong-van-on-dinh/2681800.html

Thư-viện bồ-đề online@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site