lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin Blogs:

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu Nhật-Tân:

Blog Chu-Mộng-Long:

Blog Cu Làng Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Diễn-Đàn Công-Nhân:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Blog Quê Choa VN:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Diễn-Đàn Sửa Đổi Hiến-Pháp 1992:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Trí-Lực:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Weblinks:

 

 

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại

Thư-Viện Bồ Đề Online_Thư Viện Hoa Sen

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam Ở Trong Và Ngoài Nước

Một tài liệu căn bản tối quan trọng soi sáng vụ Phật Giáo 1963:
Phúc Trình Của Phái Bộ Liên Hiệp Quốc Về Tình Hình Phật Giáo Năm 1963 tại nước Việt-Nam Cộng-Hòa

1, 2

Nguồn: trachnhiemonline

hậu tập vào dịp Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901 - 2001)
Người thâu tập và trích dịch:
Tôn Thất Thiện

 Phần I:
Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge vận động Quốc Hội Hoa Kỳ lên án Chính Phủ Ngô Đình Diệm và ém nhẹm phúc trình của Liên Hiệp quốc
1 - Lodge vận động Quốc Hội Hoa Kỳ lên án ông Diệm
(trích trong The Year of the Hare [America in Vietnam, January 25, 1963 - February 15, 1964] của Francis X. Winters do The University of Georgia Press, Athens and London, xuất bản năm 1997).
Trong buổi hội kiến với Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 26 tháng 8, 1963 "Lodge nói rằng, theo hiến pháp, Quốc Hội Hoa Kỳ nắm quyền chi tiêu" về ngoại giao... Lodge muốn ám chỉ rằng Quốc Hội đòi Saigon phải cải tổ nếu muốn được tiếp tục nhận viện trợ. Thật ra, thì trong Quốc Hội Hoa Kỳ không có sự đòi hỏi đó. Cho nên, chính Lodge phải đích thân khuậy sao cho có sự đòi hỏi đó. Ông ta bèn hỏi Rusk có cách nào khuấy động để Ủy Bang Ngoại Giao của Hạ Viện đưa ra một sự đe dọa như thế không. Bundy và Hilsman thích dùng Thượng Viện làm nơi chính để chống ông Diệm hơn. Họ biết rằng Thượng Nghị Sĩ Frank Church không ưa ông Diêm. Do đó, họ cùng ông này thảo Quyết Nghị tháng 9 lên án ông Diệm "đối xử tàn bạo về tôn giáo. (tr.62)
2.- Lodge, Hilsman, McGeorge Bundy và Church toa rập vu khống ông Diệm
(Trích trong Lodge in Vietnam [A Patriot Abroad] của Anne E. Blair do Yale University Press, New Haven and London xuất bản năm 1995).
"ông Lodge là người nhiều kinh nghiệm về việc vận động Thượng Viện thông qua các dự luật. Do đó, ông hỏi Rusk có thể vận động Ủy Ban Ngoại Giao của Hạ Viện cắt đứt viện trợ cho Chính Phủ Việt Nam không. Ông ta giải thích rằng đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn bị bó tay, nhưng nếu vận động Hạ Viện được như vậy thì viện trợ sẽ tái cấp nếu ông Diệm chịu cải tổ. Hilsman và Mcgeorge làm việc với Thượng Nghị Sĩ Church, người cùng quan điểm với họ, để thảo một quyết nghị thích hợp cho Thượng Viện thông qua. Trong bài diễn văn đưa bản quyết nghị ra trước Thượng Viện vào tháng 9, õngChurch nhấn mạnh rằng động lực thúc đẩy ông là "đối xử tàn bạo về tôn giáo". (p. 55)
Ghi chú:Nếu Bản Phúc Trình của Phái Bộ Điều Tra Liên Hiệp Quốc không bị ém nhẹm và được đưa ra trình Liên Hiệp Quốc và dư luận quốc tế, rõ ràng quyết nghị trên đây là một sự vu khống trắng trợn.
3. Lodge và New York Times vu khống Chính Phủ Việt Nam về vụ phái bộ Liên Hiệp Quốc đến Việt Nam điều tra.
(Trích trong A Death in November (America in Vietnam) của Ellen J. Hammer do E.P. Dutton, New York xuất bảnnăm 198?)
Ngày 24 tháng 10, 1963, một phái bộ của Liên Hiệp Quốc đến Sài Gòn để điều tra về vụ Phật Giáo.
Chính Phủ Việt Nam chưa có hành động gì cả, nhưng Lodge báo cáo với Kennedy như sau:
"Những người Việt có học thức hân hoan chờ đợi Phái Bộ, đồng thời phần đông tin rằng Chính phủ Việt Nam sẽ không để cho Phái Bộ được tự do hành sự' (p 252)
Bộ Ngoại Giao Mỹ và báo New York Times phụ hoạ Lodge:
"Người Mỹ lúc đầu cho rằng Bà Nhu sẽ là đại diện của chế độ Sài Gòn, và Bà ấy sẽ dùng ngôn ngữ thóa mạ và làm cho dư luận Hoa Kỳ chống đối mà thôi. Nhưng người Mỹ lại được nghe Bà em dâu ông Diệm nói rằng chính phủ Bà hoan nghênh đón tiếp một phái bộ điều tra ùa sẽ chấp nhận những phát hiện của họ. Báo New York Times nói đây chỉ là một mánh khoé của Bà Nhu. Bà dùng mánh khoé này chỉ vì Bà ấy biết rằng sự đề cử một phái bộ điều tra như thế sẽ bị Đại Hội Liên Hiệp Quốc bác bỏ. Đại sứ Lodge đánh điện cho Washington nói rằng theo quan điểm của Toà Đại sứ Chính Phủ Sài Gòn "sẽ chống cự kịch liệt quyết nghị đề nghị cử một đại diện hay một phái bộ Liên Hiệp Quốc đến tận nơi để cứu xét về những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam". (tr. 253) Ghi chú: Trên đây là những hành động lừa gạt dư luậnvà Chính Phủ Hoa Kỳ của những cơ quan và cá nhân có sứmạng đưa tin tức chính xác để dân Hoa Kỳ có thể lấy nhữngquyết định đúng và phù hợp với quyền lợi của quốc gia họ.Đấy là những hành động đưa đến sự hy sinh của 58.000binh sĩ Mỹ trong những năm tới.
Ngày 7 tháng 10, Đại Hội Liên Hiệp Quốc quyết định hoãn cuộc bàn cải về bản thảo quyết nghị kết án Chính Phủ Việt Nam và cử một phái bộ đi Việt Nam điều tra. Nghe tin này,
"Ở Sài Gòn Đại sứ Lodge không hiểu tại sao Phái đoàn Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc lại muốn tránh một cuộc bàn cãi tại Đại Hội và một quyết nghị lên án Chính Phủ Diệm. Ông ta điện cho Washington: Tôi nghĩ rằng sẽ có rất nhiều lo ngại về khả năng bản phúc trình [của Phái Bộ Liên Hiệp Quốc] sẽ thuận lợi cho Chính Phủ Việt Nam". (tr.258)
"Bửu Hội [Đặc sứ của Chính Phủ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã cam đoan với Ngoại Trưởng Rusk là sự mời Liên Hiệp Quốc cử một phái bộ đến Việt Nam không phải là một kế trì hoãn, và phái bộ sẽ được tự do đi bất kỳ nơi nào ờ Việt Nam và gặp bất kỳ ai họ muốn. Nhưng Lodge lại cho rằng phái bộ sẽ ngây thơ nếu họ tin như vậy; theo ông ta Chính Phủ Việt Nam sẽ không khi nào để cho họ thâu được những tin tức bất lợi cho Chính Phủ đó. Ông ta điện cho Kennedy rằng lãnh tụ sinh viên đang bị bắt, và tất cả bằng chứng cho thấy rằng Chính Phủ Việt Nam đang đe dọa đối phương để khép miệng những nhân chứng chống đối và ngăn cản không cho họ đến gặp phái bộ, và phái bộ sẽ được đi một vòng du lịch theo kiểu Cooks " (tr. 259)
4.- Lodge vận động Liên Hiệp Quốc đừng bàn về bản phúc trình của phái bộ Liên Hiệp Quốc điều tra vụ chính phủ Ngô Đình Diệm bị tố cáo vi phạm nhân quyền vì nhận thấy kết quả bất lợi.
(Trích trong Lodge in Vietnam [A Patriot Abroad] của Anne E. Blair do Yale University Press, New Haven and Lon on xuất bản năm 1995).
"Sau cuộc đảo chánh Lodge yên lặng vận động để Bản Phúc Trình của Phái Bộ Điều Tra của Liên Hiệp Quốc đã viếng Việt Nam vào tháng 10 và tháng 11 để điều tra về những sự than phiền của Phật Giáo về nhân quyền bị vi phạm khỏi được đưa ra bàn cãi ở Đại Hội Liên Hiệp Quốc. Viên chức Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc đã cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ biết rằng sự công khai hoá những điều mà Phái Bộ Liên hiệp Quốc phát hiện được sẽ gây lúng túng cho chế độ mới ở Sài Gòn gồm những người đã phục vụ dưới ông Diệm. Thêm nữa, một cuộc bàn cãi công khai có thể cho thấy rằng chế độ mới này cũng chẳng kém độc tài hơn chế độ cũ và cho Hà Nội và Bắc Kinh thêm một dịp để tố cáo Chính Phủ Hoa Kỳ đã dính líu vào cuộc đảo chính. Lodge am hiểu sự khác biệt về ảnh hưởng của những tố cáo trước một diễn đàn quốc tế, sẽ được báo chí quốc tế quảng cáo rầm rộ, và những bằng chứng cục bộ trong một tờ trình viết được ít người đọc. Nhân một dịp viếng Washington vào tháng 12, ông ta thẳng thừng yêu cầu ông Senerat Gunewardene, đại sứ Ceylon, người dẫn đầu nhóm Liên Hiệp Quốc đã thâu tập dữ kiện về vụ Phật Giáo, đừng có đòi một sự bàn cãi về những gì ông ta đã phát hiện được. Gunewardene nhận làm như Lodge yêu cầu để làm vừa lòng một người bạn lâu năm, vào thời ông Lodge làm đại sứ đại diện Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc. Như nhiều người khác đã có dịp giao dịch với Lodge, Gunewarđene đã bị Lodge quyến rũ và coi ông này như là một người bạn" (tr. 77-78) ' .
Bà Blair đã ghi rằng những điều trên đây là do con gái của ông Gunewardene tiết lộ trong một bức thư gởi cho bà ta vào tháng 11, năm 1988, nghĩa là 26 năm sau, vụ toa rập ém nhẹm sự thật này mới được đưa ra ánh sáng. (Xem trích dẫn: Blair, tr.178).
Phần II
Phúc trình của phái bộ Liên Hiệp Quốc thâu tập dữ kiện về vi phạm nhân quyền ở Nam Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
United Nations, General Assembly, Eighteenth session, Agenda item 77,
THE VIOLATION OF HUMAN RIGHTS IN SOUTH VIET NAM
Report of the United Nations Fact-finding Mission to SouthViet Nam
Document A/5630, 7 December 1963 (323 trương)
Hay:
Report of United Nations Fact-finding Mission to South Viet Nam
Published by the Subcommittee to Investigate the
Administration of the Internal Security and Other Internal Security Laws of the Committee of the Judiciary, United States, U.S. Government Printing Offlce, 1964
Đoạn I.- Hình thành Phái Bộ Liên Hiệp Quốc
1- Nguồn gốc của Phái Bộ.
Ngày 4/9, 1963, đại diện của 14 quốc gia thành viên, thuộc các khối Á, Phi, Nam Mỹ, sau đó thêm Mali và Népal, yêu cầu ghi vào chương trình nghị sự của Đại Hội một mục, số 77, mang tít là "Sự vi phạm nhân quyền ở Nam Việt Nam".
 Ngày 9/9 một văn thư được gởi cho tất cả các quốc gia thành viên. . . .
Ngày 13/9 một văn kiện ghi đầy đủ chi tiết về những vi phạm mà Chính Phủ miền Nam Việt Nam bị gán cho được gởi cho tất cả các phái đoàn ở Liên Hiệp Quốc. ]Để làm sáng tỏ rằng đây chỉ là những tội người ta gán cho Chính Phủ Việt Nam - Liên Hiệp Quốc dùng danh từ "allegations” để nhấn mạnh điểm này - toàn văn bản gán tội này sẽ được chép lại dưới đây để tiện bề so sánh với những phát hiện của Phái Bộ Liên Hiệp Quốc cho thấy rằng những điều gán trên đây là mơ hồ, không đúng với sự thực. (Xin xem trang 5)]
Ngày 20/9, Đại Hội quyết định ghi mục trên đây vào chương trình nghị sự.
Ngày 7/10, Đại Hội mang mục 77 ra cứu xét. Đại diện của Ceylon, Đại sứ Gunewardene, bạn thân của Đại sứ Lodge, đã kích Chính Phủ Việt Nam một cách rất gay gắt. Đồng thời Chủ Tịch Đại Hội thông báo cho các đại diện là ông có nhận được một bức thư của Đặc sứ Việt Nam ' [Giáo Sư Bửu Hội đề ngày 4/10/1963 nhờ ông chuyển lời của Chính Phủ Việt Nam mời Liên Hiệp Quốc gởi một phái bộ sang Việt Nam “đẽ thấy tận mắt những gì thật sự xảy ra giữa Chính Phủ và cộng đồng Phật Giáo ở Việt Nam."
Theo đề nghị của đại diện Costaria, Đại Hội nhận lời mời của Chính Phủ Việt Nam, đình việc cứu xét đề nghị lên án Chính Phủ Việt Nam, và cho phép ông Chủ Tịch cử một Phái Bộ đi Việt Nam. Đề nghị này được 80 phiếu thuận, 0 phiếu chống, và 5 phiếu trắng.
Ngày 11/10 ông Chủ Tịch Đại Hội thông báo ông đã cứ một phái bộ gồm đại diện của 7 quốc gia (Afghanistan, Brazil, Ceylon, Costaria, Dahomey, Morocco, Nepal) với mục đích "thăm Cọng Hoà Việt Nam để thấy tận mắt tình hình thế nào về liên hệ giữa Chính Phủ Cộng Hoà Việt Nam và cộng đồng Phật Giáo."
Phái Bộ sẽ đến Sài Gòn ngày 24/10 và dự định rời Sài Gòn ngày 4/11/1963.
Tr­ước khi Phái Bộ lên đường, Trưởng Phái Bộ (đại diện Afghanistan) ra một thông cáo nhấn mạnh đây là một "Phái Bộ Thâu Tập Dữ Kiện" (Fact Finding Mission) chớ không phải là một "Phái Bộ Điều Tra" (Inquiry Mission). Đây là một điều mà Chính Phủ Việt Nam coi như căn bản, vì phái bộ này do Chính phủ Việt Nam mời, chớ không phải bị áp đặt từ ngoài, và nó không có sứ mạng phán xét, chỉ có sứ mạng thâu tập dữ kiện mà thôi. (tr.7) [Để tránh danh xưng dài, bài này sẽ dùng danh từ "Điều Tra” thay vì "Thâu Tập Dữ Kiện”
2- Đặc điểm về Phái Bộ
Vô tư: Trước khi lên đường, Trưởng Phái Bộ đưa ra một tuyên bố nhấn mạnh tính cách "nhất thời" (ad hoc) của Phái Bộ, và quyết tâm "luôn luôn vô tư". Lúc đến Sài Gòn, trong một tuyên cáo khi ông lên đường nói rằng Phái Bộ "có ý định điều tra tại chỗ, nghe nhân chứng và nhận kiến nghị". Ông kêu gọi mọi phe tránh biểu tình. Ông nhấn mạnh tính cách vô tư của Phái Bộ. Ông nói:" Chúng tôi sẵn sàng ghi nhận mọi quan điểm và quyết tâm báo cáo dữ kiện". (tr. 9)
Tự do lựa chọn nhân chứng: Ông Trưởng Phái Bộ cũng nhấn mạnh rằng Phái Bộ hoàn toàn độc lập và họ hoàn toàn tự do trong sự lựa chọn nhân chứng, không cần báo trước cho chính quyền biết. Để chứng minh điều này, ông sẽ đưa cho bộ Trưởng Ngoại Giao một danh sách các nhân chứng mà họ muốn gặp [toàn bộ danh sách này sẽ được ghi lại d­ới đây. (Xin xem trang 6).]
Tự do đi lại: Trong các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo cao cấp Việt Nam - Tổng Thống, Cố Vấn Chính Trị, các Bộ Trưởng liên hệ - họ đều yêu cầu được cam đoan là họ sẽ được tự do đi lại, và để giữ tính cách độc lập, họ quyết định trả lấy chi phí của họ.
Sau đây là bản ghi những vi phạm mà các tác giả bản dự thảo nghị quyết ngày 13/9/1968 gán cho Chính Phủ Việt Nam tại Đại Hội Liên Hiệp Quốc. Nó sẽ là căn bản của cuộc điều tra của Phái Bộ Liên Hiệp Quốc. Phái Bộ sẽ căn cứ trên đó để chất vấn các nhân chứng. Những vi phạm gán (allegations) cho Chính Phủ Việt Nam trong dự thảo quyết nghị của Đại Hội Liên Hiệp Quốc ngày 13/9/1963:
1) Cộng Hoà Việt Nam đã công khai vi phạm nhân quyền khi Chính Phủ Cọng Hoà Việt Nam ngăn cản không cho đa số công dân xử dụng những quyền được ghi trong Điều 18 của Tuyên Ngôn Nhân Quyền...
2) Ghi lại những chi tiết của Điều 18]
3) Tháng 5 năm nay, công dân Việt Nam xứ Huế muốn thực hành quyền được công nhận trong điều nói trên bằng cách làm những lễ thích ứng liên quan đến ngày sinh thứ 2507 của người lập lên tôn giáo mà hơn 70 phần trăm dân Việt Nam đã lựa chọn. Chính Phủ Ngô Đình Diệm đã không cho họ thực hiện quyền này. Thật ra sự từ chối này đã thực hành một cách tàn nhẫn. Chín ngư­ời đã thiệt mạng khi quân đội đư­ợc Chính Phủ ra lệnh nổ súng vào công dân. Tai nạn này dẫn đến sự đòi hỏi Chính Phủ phải giải quyết những kêu ca và chấp nhận trách nhiệm của mình về sự chết chóc. Chính Phủ không làm điều nào cả trong hai điều này. Do đó, có sự gia tăng đòi hỏi biện pháp sửa chữa. Sự bất bình đối với Chính phủ về những bất công của Chính Phủ mạnh mẽ đến nỗi năm nhà sư và một ni cô đã tự thiêu, một hành vi bất thường đối với những người theo tôn giáo đó.
4) Chính quyền đã đáp lại kêu gọi của công dân đòi công lý với đe doạ và chế diễu, và tiếp theo đó, sau 12 giờ đêm ngày 20 tháng 8, tán công chùa sùng kính, Chùa Xá Lợi, ngôi chùa chính ở Sài Gòn của những người theo tôn giáo của đa số. Từng bầy cảnh sát được trang bị súng liên thanh và súng các bin xông vào chùa và bắt hàng trăm nhà sư và ni cô mang đi nhà tù sau khi đã gây thương tích cho họ. Hành động này được lặp lại khuya hôm đó ở một số chùa trong toàn xứ. Có ít nhất là 1,000 nhà sư bị giam tù hiện nay. Con số bị tử thương không biết là bao nhiêu.
5) Hàng trăm sinh viên Đại học Sài Gòn biểu tình chống những hành động độc đoán của Chính Phủ bị bắt hôm chủ nhật, 25 tháng 8, 1963. Chính Phủ càng ngày càng tiến về hướng dẹp bỏ các nhân quyền căn bản, như quyền hội họp, tự do ngôn luận, tự do thông thương, v.v... (tr.24)
Và dưới đây là các danh sách những ng­ười nhân chứng mà Phái Bộ thông báo cho Bộ Trưởng Ngoại Giao là họ muốn phỏng vấn.
Nhìn qua những danh sách này, ta thấy rằng đây có thể nói là toàn bộ những cá nhân và phe phái đối lập Chính Phủ Việt Nam, thuộc đủ mọi giới, mọi thành phần chính trị, xã hội, tôn giáo...Tất nhiên, sau khi đã tự do phỏng vấn kín chừng ấy người, Phái Đoàn không thể nói là mình không biết rõ tình hình Việt Nam nữa. Và điếu này cũng là một sự phản bác những luận điệu xuất phát từ các báo Mỹ và viên chức Hoa Kỳ nói rằng Chính Phủ Việt Nam ngăn cản không cho Phái Bộ Liên Hiệp Quốc tiếp xúc với người này người khác vì muốn dấu diếm sự thật.
Danh sách những nhân viên cao cấp của Chính Phủ Việt Nam:
1. Tướng Trần Tử Oai
2. Tổng Thống Ngô Đình Diệm
3. Cố vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu
4. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ
5. Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương
6. Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần
7. Đại biểu Chính Phủ Trung Phần và Tư Lệnh Quân Đoàn I, và viên chức khác
8. Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Trương Công Cừu
Danh sách các chức sắc Phật Giáo và nhân chứng khác:
Thành viên ủy Ban Liên Bộ:
1. Nguyễn Đình Thuần
2. Bùi Văn Lương . '
3. Thành viên ủy Ban Liên Phái:
4. Thích Thiện Minh (Trưởng Ban)
5. Thích Tâm Châu (ủy viên)
6. Thích Thiện Hoa (ủy viên)
7. Thích Huyền Quang (Thơ ký)
8. Thích Đức Nghiệp (Phụ tá Thư ký)
9. Thích Mật Nguyện (Tăng Trưởng Hội Tăng Già Trung Việt)
10. Thích Thiện Siêu.(Chủ Tịch Hội Phật Giáo Thừa Thiên).
11. Ngài Đặng Văn Kat [Cát ?] (sư)
12. Thích Chi Thu [Trí Thủ?] (sư)
13. Thích Quảng Liên (sư) '
14. Ngài Pháp Tri
15. Thích Tâm Giao
16: Krich Tang Thay
17. ông Mai Thọ Truyền
18. Diệu Huệ (ni sư)
19. Diệu Không (ni sư)
20. Tướng Phạm Xuân Chiểu (Tham Mưu Trưởng Quân Đội)
21. Trần Văn Đổ (Cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao)
22. Cựu Bộ Trưởng Tư Pháp
23. Bác Sĩ Phan Huy Quát (Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng và Quốc Gia Giáo Dục)
24. Lê Quang Luật (Cựu Bộ Trưởng Thông Tin Tuyên Truyền)
25. Nguyễn Thái (Cựu Tổng Giám Đốc Việt Tấn xã)
26. Nguyễn Văn Bình (Tổng Giám Mục Sài Gòn)
27. Ông Trần Quốc Bửu (Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động)
28. Tôn Thất Nghiệp (Lãnh tụ sinh viên; Thư ký Hội Phật Giáo Sài Gòn)
29. ông Hồ Hữu Tường (Nhà văn và giáo sư)
30. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm (Khoa trường Y khoa Đại học Sài Gòn)
31. ông Nguyễn Xuân Chữ (Nhà báo)
32. Cha mẹ cô gái bị chết trong dịp biểu tình ngày 25 tháng 8
33. Viên chức cao cấp của Hội Luật Sư Sài Gòn
34. Viên chúc cao cáp Liên Đoàn Lao Động (nếu có)
35. Uỷ Ban đề nghị thả các nhà sư.
36. HUẾ
37. Thích Tịnh Khiết (Lãnh đạo tối cao, Chủ tịch của tất cả các Hội Phật Giáo Huế)
38. Phan Binh Dinh (Lãnh tụ sinh viên Phật tử Huế, Thư ký của Hội sinh viên Phật tử Huế)
39. Thích Đôn Hậu (Chủ tịch ủy ban tổ chức Phật Đản)
40. Linh Mục Cao Văn Luận (Viện trưởng Công giáo Đại học Huế
41. Bùi Tường Huân (Khoa trưởng Luật Khoa Huế
42. Bác sĩ Lê Khắc Quyến.
Bản Phụ 1
1. Thích Quảng Độ
2. Các vi sư còn ở trong [các trại giam?]
3. Thích Hộ Giác
4. Thích Giác Đức
5 . Thích Thể Tịnh
6. Thích Thiện Thắng [?]
7. Thich Phạm Quang Thanh [?j
8. Thích Liên Phu [Phú?]
9. Thích Chánh Lạc
10. Nguyễn Thị Lợi (ni cô)
11. Diệu Cát (ni cô)
12. Nieo mu Tinh Bich (ni cô) [?]
Bản Phụ 2
1 . Nguyễn Hữu Đông [Đổng? Đồng?]
2. Nghiêm Xuân Thiện
3. Đức Nhuận
[Tất cả là 60 người, thuộc đủ thành phần, xu hướng.
Những tên kèm theo dấu [?] là những tên không biết chính xác là gì
(tr. 271-273)
Đoạn II. Phỏng vấn các nhân viên Chính Phủ. 
Tướng Trần Tử Oai
Trong một bản tuyên bố dài (12 trương: tr. 27-39) Tướng Trần Tử Oai trình bày vấn đề Phật Giáo. Theo ông, đó là một cuộc khủng khoảng khởi phát từ vụ va chạm ở Huế về vấn đề treo cờ. Lúc đầu nó chỉ là một cuộc va chạm riêng biệt và không quan trọng gì, nhưng sau đó "do sự can thiệp của các phần tử quá khích" nên nó lại trở thành một phong trào lớn đòi hỏi chống Chính Phủ.
Bản tuyên bố kết thúc như sau: "Nếu ta xét kỹ dữ kiện ta sẽ thấy rằng vụ Phật Giáo chỉ có một khía cạnh tôn giáo giới hạn, và chính trị là phần chính, nhất là ở giai đoạn cuối của nó" (tr.37). Ông nhấn mạnh rằng "một số cơ quan thông tín ngoại quốc, chẳng hiểu gì về vấn đề từ đầu, đã vô tình hay cố ý đầu độc dư luận quốc tế”, và "không hề có ngược đãi hoặc kỳ thị đối với Phật Giáo" (tr.38).
[Tướng Oai không nói gì mới lạ, nhưng điều quan trọng ở đây là: đây là lần đầu mà đại diện các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc được nghe một viên chức của Chính Phủ Việt Nam trình bày tường tận vấn đề với một quan điểm hoàn toàn khác với những quan điểm mà họ đã được biết qua tường thuật bóp méo và cục bộ của báo chí và các nguồn tin khác có ác cảm với Chính Phủ, mà họ đã dùng làm căn bản để thảo bản vi phạm gán cho Chính Phủ Sài Gòn được đưa ra Đại Hội Liên Hiệp Quốc ngày 13 19/1963 (đã được chép lại nguyên văn ở trang 5).
Những tuyên bố của các lãnh tụ cao cấp khác của Chính Phủ được trình bày dưới đây tất nhiên cũng có tác động tương tự, nếu không nói là quan trọng hơn nữa, đặc biệt là những tuyên bố của ông Cố Vấn chính trị Ngô Đình Nhu, và ông Bộ Trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương vì nó tiết lộ nhiều chi tiết mà từ trước ít ai được biết đến].
Tổng Thống Ngô Đình Diệm 
Cuộc tiếp xúc với Tổng Thống Ngô Đình Diệm rất ngắn. Trong bản Phúc Trình của Liên Hiệp Quốc nó chỉ chiếm có một trang. Tổng Thống chỉ nói vắn tắt, và "nhắc lại lời hứa của ông về việc sẵn sàng cung cấp cho Phái Bộ tất cả những dễ dãi để họ làm tròn nhiệm vụ” [trái với những tuyên bố của ông Lodge nói Chính Phủ Việt nam sẽ cản tr không cho Phái Bộ tìm ra sự thực]. Tổng Thống Diệm chỉ nói ít thôi vì chắc ông biết là các ông Ngô Đình Nhu và Bùi Văn Lương sẽ nói nhiều và đi vào chi tiết của vấn đề.
Ông Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu
Trái với trường hợp Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cuộc tiếp xúc giữa Phái Bộ và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu rất dài (24 trang trong Bản Phúc Trình, tr. 42-56 -). Cùng với những tuyên bố của Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương, những tuyên bố của ông Ngô Đình Nhu chiếu rất nhiều ánh sáng vào vấn đề Phật Giáo 1963. Nó tiết lộ rất nhiều chi tiết mà tới nay ít ai biết và hiểu, vì có những khía cạnh lịch sử và xã hội mà họ không biết hoặc không để ý đến. Đây lại chính là những khía cạnh mà ông Nhu đã giải thích rất cặn kẽ cho Phái Bộ Liên Hiệp Quốc.
Trong khung cảnh bài này không thể chép lại toàn vẹn những tuyên bố của ông Nhu. Chỉ có thể trích dịch một số đoạn chứa đựng nhiều tiết lộ quan trọng nhứt.
a. Một khía canh của vấn đề chm tiến: Trong nhãn quan ông Nhu, vấn đề Phật Giáo là một khía cạnh của vấn đề chậm phát triển của Việt Nam. Các phong trào chính trị, xã hội và tôn giáo đã phát triển rất mạnh từ khi nước Việt Nam độc lập. Nhưng, cũng như chính phủ, các phong trào ấy thiếu cán bộ, và sự thiếu cán bộ này đã gây ra nhiều vấn đề.
Ông nói: Tình hình của Phật Giáo cũng như vậy; nó đã phát triển rất mạnh, nhưng nó không đủ cán bộ, và sự kiện này là nguyên do của một số sai lầm, một điều không thể tránh được. Tôi nghĩ rằng ngay cả chính phủ cũng bị một s sai lầm... (tr. 42)
b. Khía cạnh sử hoc và xã hi hc.: "Vấn đề Phật Giáo phát khởi từ những ngày chót của chế độ thuộc địa, và ngay từ trước Thế Chiến II. Sự kiện này không áp dụng riêng gì vào Phật Giáo. Các đoàn thể chính trị và tôn giáo khác đặc biệt là Khổng Giáo cũng như thế. Mỗi đoàn thể đều có vấn đề riêng của mình.
Thời kỳ này là thời kỳ mà tất cả các dân tộc Á Đông đều bị yếu đi, vì chính sách của Nhật, vì Hitler và phát xít... Đồng thời có một sự phục hưng về tôn giáo...Vấn đề của Phật Giáo ngày nay là làm sao vừa đáp ứng được những đòi hỏi của cuộc tranh đấu chống cng sản vừa đáp ứng được những đòi hỏi của kỹ nghệ hoá? hoặc làm sao tìm ra một thần thuyết nối liền được Tây với Đông. Phật Giáo có đủ khả năng giải quyết nhiệm tác cấp bách và sinh tồn này không? Sự phục hưng của Phật Giáo đã xảy ra trong bố cảnh này. Những vấn đề này đã có từ năm 1933. . .
Phong trào Phật Giáo là một phong trào lành mạnh của một t chức bị bóp nghẹt dưới thời thực dân và đang tìm cách phát triển trong điều kiện thực dân bị giải thể. Nó là một phong trào lành mạnh. Nhưng nó phát triển trong những điều kiện không thuận lợi. Nó bị áp lực của Đông lẫn Tây. Hai ý thức hệ này đều tìm cách lợi dụng nó." (tr.43)
c- Sứ mạng tôn giáo và sai lầm: (trong tất cả các cuộc phục hưng đều có sự trở lại nguồn gốc. Nếu Phật Giáo muốn trở lại nguồn gốc, là sự lựa chọn của vài vị thánh hiền mà sứ mệnh là bảo chúng ta, những người đang phải vừa lo chiến tranh vừa phải lo kỹ nghệ hoá, rằng vật chất không phải là tất cả, của những vị thánh thiện nhắc nhỡ chúng ta, những người tay bùn chân lấm, rằng có một lý tưởng ở trong giá trị tinh thần và tu định, một huyền lực bẻ gãy dây chuyền của vật chất. Đó là sứ mạng của tôn giáo. Nhưng trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam, phong trào Phật giáo đã đi lại con đ­ường của nó. Nó đã tự đặt cho nó những mục tiêu chính trị đến mức nó tham vọng lật đổ chính phủ.
Có nhiều lý do giải thích tâm trạng đã đưa các lãnh tụ Phật Giáo đến sự sai lầm này. Về căn bản, Phật Giáo ở một tình trạng lưỡng nan (nhưng chỉ ở Việt Nam). Nó không thể giữ được tính chất Phật Giáo thuần túy nếu nó thành một lực lượng chính trị. Đó là sự mâu thuẫn căn bản ở Việt Nam. Những người Phật tử đã khổ sở về sự mâu thuẫn này. Họ thấy các phong trào tôn giáo khác bành trướng, và họ đã coi sự kiện này như là một bằng chứng rằng có một cái gì đang chèn ép họ. Các tôn giáo khác - Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo - có cách giải quyết các vấn đề sinh sống hàng ngày của họ. Phật Giáo thì không thế, nó là một tôn giáo chủ trương hoàn toàn tách rời thế sự. Thấy các tôn giáo khác bành trướng họ kết luận rằng họ đang bị đàn áp (tr.44)
d- Cộng sản, Công Giáo, và Phật Giáo: "Cộng sản đã tổ chức việc cải đạo từng loạt xã thành Công giáo, và đã núp sau các xã này để xâm nhập Việt Nam. Khi Phật tử thấy các xã cải đạo theo Công giáo họ tưởng rằng đó là vì họ bị áp lực của Chính Phủ. Nhưng khi ta đọc các tài liệu ta thấy rõ rằng Chính Phủ cũng lo lắng về những vụ cải đạo ào ạt này, và tuyệt không khuyến khích việc này vì chủ động việc này là cọng sản trá hình. Sự kiện này đã gây nhiều tai hại vào năm 1960, lúc mà cọng sản phát động chiến tranh phá hoại; những làng ấy là những làng chống chúng tôi. Chính Phủ Ngô Đình Diệm đã xung khắc với giới lãnh đạo Công giáo về những vụ cải đạo ào ạt này vì các cơ quan an ninh của chúng tôi canh chừng những xã ấy chặt chẽ hơn các xã khác.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là Phật tử coi phong trào tị nạn như là bằng chứng rằng Chính Phủ khuyến khích Công giáo nhưng không khuyến khích Phật giáo, vì trong số 1.000.000 tị nạn từ miền Bắc vào Nam có 700.000 Công giáo. Người theo Phật giáo tin rằng đó là vì Tổng Thống là ng­ười theo Công giáo. Họ không hiểu rằng đó chỉ là một vấn đề tổ chức: vì người Công giáo có tổ chức tốt hơn về việc đời, cả giáo khu có thể động viên để ra đi, trong khi người theo Phật giáo tản mát và không có tổ chức." (tr.45)
e- Chính Phủ từ chối không cho Công giáo đặc quyền.
"Chính phủ áp dụng một chính sách chung cho tất cả mọi người. Chính Phủ khuyến khích tất cả các tín ngưỡng để chống lại chủ nghĩa vô thần của cọng sản...Sau 1955 có vấn đề các giáo phái muốn thiết lập những quốc gia trong quốc gia. Năm 1957 người Công giáo muốn được đặc quyền -trường học không có sự giám sát của Chính Phủ và cộng đồng riêng. . . [Họ bất mãn vì không được nhưng] Họ chỉ không bỏ phiếu cho ông Diệm [chớ không biểu tình ồ ạt như ngày nay] " (tr.46)
f- Mỹ và âm mưu chống chính Phủ: “Âm mưu chống Chính Phủ do Ủy Ban Liên Phái tổ chức. Ủy Ban này chỉ đại diện cho một phần của Phật Giáo) Việt Nam. Những phái khác không đồng ý với họ, nhưng bị phiền toái vì thiện cảm với họ. Cùng một tôn giáo, họ cảm thấy phải liên đới với ng­ười đồng đạo Đây là điều người ngoại quốc lợi dụng. Cuộc âm mưu thành hình vì có những kẻ kích thích, đặc biệt là giới báo chí Mỹ; họ khuấy động dư luận quốc tế chống Chính Phủ. Tất cả các tổ chức đều do Ủy Ban Liên Phái điều khiển (tr.46)
"Tin các ông đến có tác động khuyến khích người ta biểu tình. Chính Phủ thấy trước việc này và đã bắt được tài liệu liên quan đến chuẩn bị biểu tình. Các tài liệu đó xuất phát từ những người Phật tử quá khích, cộng sản và ngoại nhân...Tình hình thật là gay go. Sự hiện diện của các  ông là một dịp tốt để thiêu vài người nhằm gây xúc động. Đối với Tây phương cũng như Đông phương vụ Phật Giáo là một cơ hội như vàng để chia rẽ Việt Nam. Một dịp duy nhứt để lợi dụng cực đoan chống Chính Phủ (tr.47)... âm mưu là khiêu khích dồn Chính Phủ vào thế phải bắt càng nhiều ng­ười càng tốt và gây đổ máu bằng cách bắn vào cảnh sát. (tr.48)
g- Tỷ lệ phật Giáo trong Chính Phủ và Quân đi ông Gunewardene: "Trong Chính Phủ có bao nhiêu người theo Phật Giáo?"
Ông Cố vấn chính tri: “Ba phần tư [9/13]
Ông Gunewardene: “Và bao nhiêu trong quân đội?"
Ông Cố Vấn Chính Tri: “Trong 17 ông tướng, 14 là người theo đạo Phật..." (tr. 50) 
Phỏng vấn Phó Tổng Thống nguyễn Ngọc Thơ
Cuộc tiếp xúc giữa Phái Bộ và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ tương đối ngắn (3 trang trong Phúc Trình, tr. 53 56), và Phó Tổng Thống không có nói gì đặc biệt.
Tiếp theo phỏng vấn Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, cuộc phỏng vấn ông Bộ Trưởng Bùi Văn Lương là một trong hai cuộc phỏng vấn quan trọng nhứt về phía Chính phủ Việt Nam. Do đó, dưới đây nó được trích khá dài.
Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương 
Cuộc tiếp xúc của Bộ Trưởng Bùi Văn Lương và Phái Bộ rất dài (11 trang trong Phúc Trình, (tr. 57-68), và đề cập đến nhiều vấn dề. Cùng với những tuyên bố của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, những tuyên bố của Bộ Trưởng Bùi Văn Lương cung cấp giải thích rất rõ ràng về một số vấn đề lớn về vụ Phật Giáo được nêu ra thời đó và ngay cả ngày nay. Vì vậy dưới đây sẽ trích dài nhiều đoạn của những tuyên bố đó để soi sáng một số khía cạnh then chốt của vấn đề.
a. Về Dụ Số 10.. Có sự trao đổi giữa ông Trưởng Phái Bộ và ông Bộ Trưởng như sau:
Trưởng Phái Bộ: "Thưa Ngài, điều thứ nhứt mà Phái Bộ muốn biết là tại sao Dụ Số 10 không được tu chỉnh tuy rằng trong 8 năm qua có tuyển cử và chính phủ dân chủ được thành lập, và tại sao Chính Phủ có đa số trong Quốc Hội lại không thấy cần tu chỉnh Dụ này. . . ."
Bộ Trưởng: "Về điểm thứ nhứt. Năm 1954 chúng tôi bận rộn về chiến tranh với các Giáo phái cùng nhu cầu định cư các người tỵ nạn. Như quý vị biết, chiến tranh chống các Giáo phái là một cuộc chiến tranh dùng vũ khí, chống ba Giáo phái: Bình Xuyên, Hoà Hảo, và Cao Đài. Năm 1956, chúng tôi có cuộc bầu cử Quốc Hội Lâm Thời. Từ 1956 đến 1959, chúng tôi hơi rãnh tay, và đó là lúc có thể tu chinh hoặc không tu chỉnh Dụ Số 10. Nhưng tôi phải nói rõ rằng, theo Hiến Pháp, sự tu chinh luật pháp phải do đa số dân biểu Quốc Hội yêu cầu. Trong Quốc Hội thứ nhứt, Phật tử chiếm đa số lớn; trong Quốc Hội được bầu năm 1959 cũng vậy. Nhưng không có yêu cầu tu chỉnh Dụ Số 10. Và vì không có yêu cầu của Quốc Hội, nên vấn đề tu chỉnh Dụ đó không được đặt ra..." (tr. 58)
Trưởng Phái Bộ: " Câu hỏi của tôi là: tại sao Chính Phủ lại không tự mình khởi động việc tu chỉnh Dụ đó?"
Bộ Trưởng: "Đó chính là điều mà bây giờ tôi muốn giải thích. Trong thời gian 1956-1959, và cho đến tháng 5, 1963, trư­ớc khi xảy ra vụ Phật Giáo, Chính Phủ không hề được Quốc Hội yêu cầu cứu xét dự thảo luật nào về Dụ Số 10.
Tôi phải nói cho hết về người thứ nhứt có thể tu chỉnh luật pháp: đó là Quốc Hội. Chúng tôi có hai Quốc Hội từ 1956 đến 1959, và đến khi vụ Phật Giáo xảy ra, Chính Phủ không được yêu cầu tu chỉnh gì, không được yêu cầu cứu xét dự thảo tu chỉnh Dụ 10 nào.
Người thứ hai về tu chỉnh là chính Chính Phủ. Để quyết định có tu chỉnh hay không tu chỉnh một Dụ, có hai điều kiện: 1/ chúng tôi phải thấy có nhu cầu như vậy; 2/ phải có yêu cầu như vậy xuất phát từ dân chúng.
Về điểm thứ nhứt, cho đến khi có vụ Phật Giáo, chúng tôi không thấy có nhu cầu tu chỉnh Dụ Số 10 vì, tuy rằng trên giấy tờ những điều kiện trong văn kiện rất gắt gao về sự kiểm soát các hội, Chính Phủ không hề áp dụng các điều kiện đó.
Chúng tôi luôn rất rộng rãi về các vấn đề tôn giáo và đặc biệt trong đối xử với Phật Giáo. Có một số điều khoản trong Dụ, ví dụ điều kiện buộc phải đăng ký với Bộ Nội Vụ tên những thành viên của chùa, ủy ban, hay Hội Phật Giáo, thường đ­ược bỏ qua, đặc biệt là ở các tỉnh. Cho đến năm 1960, trước khi tôi được cử làm Bộ Trưởng Nội Vụ, đó là thường lệ. Sau khi tôi làm Bộ Trưởng, lệ đó vẫn tiếp tục, và tôi cũng không kiểm tra. Nhưng năm 1963, tôi mở hồ sơ ra xem, thì tôi thấy rằng, từ 1954 cho đến 1963, chúng tôi không hề áp dụng Dụ Số 10, mà cũng chẳng hề khi nào có yêu cầu thơ tín, từ phía dân chúng đòi tu chỉnh Dụ Số 10"
…..
"Tóm lại, tôi thấy cần tuyên bố rằng từ ngày có thoả hiệp ngày 16 tháng 6 với Phái đoàn Phật Giáo, chúng tôi đã đưa vấn đề ra Quốc Hội và Quốc Hội đã cử một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu phương thức tu chỉnh Dụ Số 10. Trong khi đó, chúng tôi đã ngưng áp dụng Dụ Số 10." (tr.59) ' 
b. Vụ rắc rối ở Huế: trước ngày 8/5/1963..
Trưởng Phái Bộ: "...Chúng tôi muốn Ngài cho chúng tôi biết, càng nhiều càng tốt, về vấn đề Chính Phủ có bằng chứng tuyệt đối về điểm: các vụ chống đối chính phủ gồm có xúi giục bạo động?"
Bộ Trưởng: "…Nếu tôi nghe đúng, Ngài Trưởng Phái Bộ muốn tôi giải thích tại sao trước ngày 6/5 không có rắc rối mang hình thức của những rắc rối xảy ra sau ngày 6/5. Như Ngài Trưởng Phái Bộ nói, ba khía cạnh liên quan mật thiết với nhau. Cho nên tôi sẽ đề cập đến nhiều điểm.
Sau những rắc rối xảy ra ở Huế, tôi tìm hiểu tại sao lại có bạo động thình lình như thế, và tại sao, lúc tôi có mặt ở Huế ngày trước đó, tôi không có một ý nghĩ gì về việc này. Tôi đã đích thân gặp tất cả các vị sư mà Phái Bộ đã phỏng vấn hôm qua, kể cả Thích Trị Quang (hiện đang ở trong Sứ Quán Hoa Kỳ). Tôi đã nói chuyện với họ. Tôi đã giải thích cho họ ý nghĩa của Thông Tư về việc treo cờ và bàn luận với họ, và họ đã xác quyết với tôi rằng những giải thích của tôi thích đáng và họ hài lòng và rất vừa ý, và như thế tôi có thể yên tâm trở về Sài Gòn. Tôi rất vui và tôi trở về Sài Gòn không hề đoán được rằng ngày sau đó sẽ xảy chuyện rắc rối.
Bây giờ tôi muốn làm sáng tỏ một số vấn đề. Thông tư ngày 6/5 đến Huế ngày 7/5. Tôi đích thân đến Huế ngày 7/5 lúc 10 giờ sáng. Nửa giờ sau tôi gặp những vị sư lãnh đạo yêu cầu được gặp tôi để tôi giải thích cho họ rõ nội dung và lý do tại sao có Thông tư đó. Tôi giải thích cho họ nghe, và tôi chỉ thị cho nhân viên hành chánh sở tại tạm thời đừng thi hành Thông t­ư. Lý do của chỉ thị đó là khi tôi đến Huế , trên đường từ sân bay về thị xã, tôi thấy cờ đã được treo như tr­ước khi có Thông tư, và trong thời gian một ngày không thể hạ tất cả các cờ đã được treo lên. Các vị sư lãnh đạo rất vui lòng. Họ nghe tôi giải thích, và nói với tôi rằng tôi đã hoàn toàn thõa mãn những ý nguyện của họ. Không thể thay đổi gì theo Thông t­ư mà với tư cách là Bộ Trưởng Nội Vụ tôi đã gởi đi, vì cờ Phật Giáo và cờ Quốc Gia đã được treo ba ngày trước đó.
Sau khi tôi về lại Sài Gòn, tôi nghe nói rằng ngày 8/5 có lộn xộn đổ máu ở Huế. Tôi rất ngạc nhiên và tôi lại bay ra Huế. Tôi tự hỏi tại sao những vị sư trưởng đã quả quyết với tôi rằng họ hài lòng, mà nay lại xảy ra vụ lộn xộn. Lúc đó tôi không hiểu tại sao, nhưng sau khi chúng tôi bắt được hai ba người, tôi được một tờ khai của một người công sự viên gần gũi Thích Trí Quang, ông Đặng Ngọc Lựu. Tôi đọc tờ khai đó, và lúc đó tôi mới hiểu. (tr. 61) 
c- Âm mưu cọng sản từ 1960.
Trưởng Phái Đoàn: "ông Lựu này bây giờ ở đâu?
Bộ Trưởng "ở đây với chúng tôi. Chúng tôi đã giữ ông ấy lại và trong lời khai, ông ấy nói rằng âm mưu (và vì vậy danh từ "âm mưu” mới được dùng trong tài liệu) là một âm mưu cọng sản, đã dự tính từ năm 1960, khi đạt thỏa hiệp về hình thức xáo trộn sẽ được gây ra.
Tôi chỉ có thể kết luận rằng Thông tư 6/5 chỉ được dùng để làm lý do hữu lý để tạo ra rắc rối, vì âm mưu đã được quyết định ngay từ năm 1960 "
d.Vu rắc rối ở Huế ngày 8/5
1) Thích Trí Quang là người chủ mưu.
"Tôi đã điều tra ngay tại chỗ ngày tiếp theo khi xảy ra vụ rắc rối Huế. Tôi đến một thị xã đang còn rất sôi động; một số nhóm và cá nhân đang còn biểu tình ngoài đường phố. Tôi lại gặp các sư lãnh đạo, đặc biệt là Thích Trí Quang. Lúc đó, tôi chưa biết là ông ta là người cầm đầu vì, theo hệ thống cấp bậc, ông ta nằm dưới vị Hoà Thượng mà các Ngài đã gặp ở Chùa Ấn Quang, Thích Tịnh Khiết. Lúc đó, tôi không nghi gì về vai trò thực sự của Thích Trí Quang trong các vụ rắc rối.
Trong cuộc điều tra của tôi ngày 9/5 về vụ rắc rối 8/5, qua những lời khai của tất cả mọi người, tôi biết rằng chính Thích Trí Quang là người đã đổi thay tất cả các điều khoản trong chương trình Phật Đản đã được thoả thuận với chính quyền địa phương, và ông ta đã thay đổi chương trình một cách đơn phương, không tham khảo ý kiến với chính quyền địa phương. (tr. 61) Tôi nghĩ rằng tốt hơn là nói chuyện với ông ấy, và hỏi ông ấy về đầu đuôi chuyện ấy ra sao.
Khi tôi gặp ông ấy, tôi trách ông. Chỉ hai ngày trước đó, tôi đã gặp ông, tôi kính trọng ông, và ông đã quả quyết với tôi rằng ông hài lòng vế những giải thích của tôi nói với ông, và về những chỉ thị của tôi cho nhân viên địa phương tạm hoãn thi hành Thông tư ngày 6/5 của tôi, nhưng một ngày sau ông lại gây chuyện rắc rối. Tôi muốn nói chuyện trực tiếp với ông.
Trong tư cách là Bộ Tr­ởng Bộ Nội Vụ, tôi không muốn thấy biểu tình trên đường phố Huế, do ông xúi giục. Tưởng cũng cần nói thêm là tôi thấy ông ấy trong đám biểu tình, và cho triệu ông đến văn phòng tôi. Ở đây, tôi nói với ông ấy rằng tôi không muốn có lộn xộn nữa. Tôi cấp cho ông một cái xe Jeep và một ống loa, và bảo ông đi cùng ông Tỉnh Trưởng đi ra phố trấn tĩnh những người biểu tình. Ông nói là ông sẽ làm vậy. Và, ông đã làm đúng vậy. Nhưng thực ra, đó chỉ là một mưu kế để làm cho tôi dịu xuống. Ông xác quyết với tôi là sẽ không có gì xảy ra nữa. Tôi trở lại Sài Gòn, và ngay sau đó, nhiều rắc rối khác lại bùng phát.
"… Trong đêm 8/5 (Lễ Phật Đản), theo một chương trình thỏa hiệp sẽ có một buổi lễ công cộng trước chùa chính...Đêm đó lúc 8 giờ tối theo chương trình sẽ có thuyết pháp của một vị sư­ danh tiếng ở trước chùa chính, và sau đó sẽ có những cuộc biểu tình nhỏ của dân chúng, nhưng vào phút chót Thích Trí Quang dẹp bỏ cuộc thuyết pháp đã định và đặt sư đàn em của ông ở một số nơi để nói với công chúng: "đừng ở đây; điđến đài phát thanh, vì ở đó sẽ vui hơn, dễ chịu hơn". Do đó, mọi người giải tán và dồn nhau về đài phát thanh" (tr.62).
2) Thích Trí Quang chiếm đài phát thanh, đọc diễn văn chống Chính Phủ
"Chọn đài phát thanh là chọn một địa điểm tốt vì có một cây cầu trên Sông Hương, đó là một nơi nhiều đường gặp nhau, và đài phát thanh nằm ở giữa. Đó là một nơi rất thuận lợi để biểu tình công cọng; nhiều đại lộ dẫn đến đài phát thanh, và từ cầu hàng làn sóng người có thể đổ về đó không ngớt, và giải tán họ rất khó.
Thích Trí Quang đợi cho công chúng tụ tập đông, và ông ta đòi giám đốc đài phát thanh phải đổi chương trình đang phát thanh ngay lập tức. Giám đốc nói chương trình đã sắp xếp với sự thoả hiệp của các sư; ông ta có những băng đã thâu thanh để phát thanh vào giờ đó với những bài hát Phật giáo và những mục khác đã sắp đặt, và bây giờ Ngài lại đòi bỏ chương trình đã thu thanh rồi và thay thế nó bằng băng của ông thu hồi sáng" (tr.62).
Tôi cần giải thích rằng sáng ngày 8/5 có một buổi lễ long trọng nhưng Thích Trí Quang cũng đã thay đổi chương trình đó đi Và để làm rõ sự thiếu thành thực của các lãnh đạo Phật Giáo, kể cả Thích Trí Quang, xin đưa ra ví dụ sau đây: ông này mời viên chức chính quyền sở tại quan trọng của Huế dự lễ, nhưng ông ta lại cho chưng biểu ngữ mang khẩu hiệu chống chính phủ (tr.62), và tuy rằng trong chương trình không có dự định, Thích Trí Quang giựt micro, đọc lớn và cho ghi âm những khẩu hiệu chống chính phủ, và sau đó đọc một bài diễn văn chống chính phủ kịch liệt, và thu thanh vỗ tay của quần chúng.
"Toàn bộ buổi lễ đã được thu băng, và lúc 9 giờ tối giám đốc đài phát thanh nói rằng vào phút chót ông không thể thay đổi chương trình đã ghi băng rồi. Do đó, Thích Trí Quang kích động Phật tử lúc đó đã tụ hội đông đúc, la ó ồn ào và xô cửa đài để vào" (tr.63)
"Giám đốc đài phát thanh rất sợ hải, khoá cửa phòng lại, và điện thoại cho Tỉnh Trưởng và viên chức quân sự, và lúc này ông Tỉnh Trưởng mới được báo động. Ông Tỉnh Trưởng này là một Phật tử đi chùa đều và là con tinh thần của Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết, mà quý Ngài đã gặp ở Chùa Ấn Quang. Ông ta đến nơi xảy ra sự việc, thấy chuyện đang xảy ra, và dùng lời nói dịu Thích Trí Quang, nhưng ông này không nghe. Cho nên Tỉnh Trưởng phải gọi xe thiết giáp cỡ nhỏ, không phải xe thiết giáp thiệt, nhưng chỉ là xe half-trucks, xe bọc sắt nhẹ, đến cứu nguy, vì ông ta hy vọng rằng chỉ sự hiện diện của các xe đó cũng đủ để thị uy quần chúng và và làm cho họ đừng đập vỡ cửa ra vào và cửa sỗ của đài phát thanh" (tr.63) .
"Sau đó, Thích Trí Quang ra lệnh cho Tỉnh Trưởng phát thanh chương trình mà chính ông ta đã thâu băng buổi sáng đó, và ông xúi một số Phật tử đã bị kích thích nặng trèo lên hiên, đập bể kính cửa sổ, dùng lực mở cửa ra vào và vào trong đài để bức ông giám đốc phải phát thanh chương trình. Lúc đó ông Phó Tỉnh Trưởng ra lệnh cho cảnh sát phụ cảnh cáo những Phật tử đang đập vỡ kính cửa sổ, cảnh cáo họ phải tụt xuống, dời nơi đó và phân tán. Họ được cảnh cáo nhiều lần, và lúc đó phát hai tiếng nổ. Tôi có ở đó. Tôi trèo lên hiên và vào trong, và tôi thấy hai vũng máu trên hiên, hai tấm gương cửa sổ bị đập vỡ, và trần bị sập" (tr.63).
e. Về các sư trẻ tình nguyện tự thiêu:
 Trưởng Phái Bộ: "...Tôi muốn hỏi Ngài...có thể cung cấp cho chúng tôi những dữ kiện mà Ngài có về vụ tự thiêu xảy ra trong lúc Phái Bộ ở Sài Gòn..." (tr.64).
Bộ Tư­ởng: "..:Tôi sẽ nói thẳng với các Vị rằng các cơ quan an ninh của chúng tôi có tin tức đáng tin cậy 100 % về tổ chức ngầm của những người gọi là sư trẻ nhưng thực ra họ không phải là sư mà chỉ là những ngư­ời tự xư­ng là sư. Họ tình nguyện tự thiêu. Có 10 người tự nguyện tự thiêu công khai trong thời gian Phái Bộ ở đây.
Chúng tôi liên lạc được với họ, và qua hệ thống cải huấn của chúng tôi, chúng tôi đã nói chuyện được với họ. Chúng tôi hỏi họ: "Các anh không thích sống sao?", "Các anh có gì chống Chính phủ?", "Tại sao các anh lại muốn tự thiêu?". Họ đã viết một bức thư trong đó họ công nhận sự sai lầmm của họ. Và họ đã tự nguyện lên đài phát thanh để thú nhận sai lầm đó, và kêu gọi 5 người kia (tôi xin nhắc các Vị là có 10 ng­ười tự nguyện như thế, và một người đã tự thiêu rồi) đừng có nghe tuyên truyền vô căn cứ và công nhận sai lầm của họ.
Trong thư của họ, họ nói rằng họ bị tổ chức ngầm bao vây và canh gác trong các chùa và chỗ khác, và có những người nói với họ rằng trong vụ đột kích các chùa ngày 21 tháng 8, có nhiều sư bị giết chết. Đó là chuyện láo khoét, nhưng vì họ bị nhốt trong phòng, họ là nạn nhân của nhiều láo khoét và tuyên truyền, nên họ có những ý nghĩ sai lầm về cách Chính Phủ đối xử với các sư lãnh đạo...Chúng tôi chưa tìm được 5 người kia, nhưng chúng tôi mong rằng lời kêu gọi đối với mấy người bạn họ sẽ hiệu nghiệm" (tr. 66).
Tôi sẽ cho quý vị biết về thân thế của Thích Trí Quang. Chúng tôi có tín liệu rất đáng tin về ông ta. Chúng tôi sẽ đưa những tín liệu này cho Ngài Trưởng Phái Bộ.
Thích Trí Quang trước đây là một cán bộ cao cấp của Cọng sản, và hồ sơ mật của chúng tôi có bằng chứng về điều này. Chúng tôi sẽ đưa chứng liệu này cho Phái Bộ. Về điểm tại sao ông ta tỵ nạn ở Sứ Quán Hoa Kỳ và ông ta vào đó được bằng cách nào tôi sẽ trả lời viết sau khi xem lại những ghi chép về điều tra và hồ sơ của tôi để cho có thêm chi tiết.
Trưởng Phái Bộ: "Chúng tôi cũng muốn biết tại sao ông ta lại chọn Sứ Quán Hoa Kỳ". '
Bộ Trưởng: "Tôi cũng sẽ cho quý Vị trả lời viết về điểm này, nhưng tôi có thể nói ngay với Quý Vị rằng, theo những tài liệu mà chúng tôi bắt được trong các chùa, và theo những lời tuyên bố của Thích Tâm Châu, người phụ trách về liên lạc với báo chí ngoại quốc trong ủy Ban Liên Phái, thì Thích Trí Quang thường liên lạc với người ngoại quốc để đòi lật đổ Chính phủ. Những tuyên bố của Thích Tâm Châu chứa tên của những người ngoại quốc được liên lạc. Nhưng tôi sẽ cho Quý Vị trả lời viết về điểm này. Tôi có thể đưa ra vài tên được tiết lộ như Cummings, Bogs. Tuy nhiên, trước khi tôi cung cấp tín liệu này, tôi phải xin phép Chính Phủ tôi, vì tôi không phải là toàn thể Chính Phủ, và vì bang giao với Hoa Kỳ tôi phải tham khảo ý kiến các đồng nghiệp tôi, (tr.67) . 
Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần
Cuộc tiếp xúc của Phái Bộ với Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần không có gì đặc biệt. Ông này nhấn mạnh rằng những gì ông trình bày chỉ là lặp lại những gì mà các ông Tổng Thống, Cố Vấn Chính Trị và Phó Tổng Thống đã nói rồi (tr. 69- 75.)
Viên chức Huế
a. Quân đội và vấn đề treo cờ .
Ông Volio: " Ngày 7/5 Quân đội đã hạ tất cả cờ Phật Giáo, có đúng vậy không?”
Tư lnh Quân đoàn I: “ Quân đội không dính líu gì đến vụ cờ”.
Ông Amor: “Vấn đề treo cờ ở Huế liên quan với Phật Giáo, có đúng vậy không?"
Tư lênh Quân Đoàn: "Có một sự hiểu lầm về yêu cầu dân chúng treo cờ Phật Giáo cao hơn cờ Quốc gia. Chỉ có một số ít Phật tử nghĩ rằng họ tuyệt đối không được treo cờ Phật Giáo." '
b. Tỷ lệ Phật Giáo 1 Công Giáo
Ông Amor "Tỷ lệ Phật Giáo/Công Giáo ở Huế là bao nhiêu?" .
Đại biểu Chính Phủ: "Tôi không thể cho Ngài con số chính xác được. Đa số theo Phật giáo. Tôi sẽ phải xem tài liệu mới biết."
Ông Amor: "ông có thể cho tôi biết tỷ lệ chừng chừng là bao nhiêu không?"
Đai biểu Chính Phủ: "Trên nguyên tắc thì trong nước đa số theo Khổng Giáo. Tất nhiên có người theo Phật Giáo và Công Giáo, đặc biệt là ở Huế, vì ở đây, lâu ngày trước kia có gia đình vua, quan, và công chức. Khoảng 80 % theo Phật Giáo. Còn lại là theo Công Giáo và Khổng Giáo. Bây giờ tôi có thể cho các Ngài biết tỷ lệ công chức Quốc gia trong vùng Trung Phần: 25% theo Công Giáo, 31% theo Phật Giáo, và 42 % theo Khổng Giáo.
Tôi xin nói thêm vài điều. Tôi muốn nhấn mạnh rằng ở Huế và Trung Phần tập họp được tất cả các đại diện hành chính là một điều hiếm có. Chúng tôi đã tập họp đông đủ như hôm nay cốt để các Ngài thấy chúng tôi khách quan và muốn cung cấp cho các Ngài tin tức giúp các ngài làm được việc. Ở đây có nhân viên quân sự, tư pháp, toà viện trưởng đại học, đại diện dân chúng và ông Viện trưởng Đại học. Tôi đã yêu cầu hai viên chức cao cấp nhất của mỗi ngành đến gặp các ngài để cung cấp cho các Ngài tất cả các chi tiết thống kê mà các Ngài cân.
Phần khác, các Ngài có thể mời họ, hoặc bất kỳ người dân nào ở Huế đến gặp các Ngài bất kỳ lúc nào, và hỏi họ bất cứ điều gì trong thời gian các Ngài ở đây. Các Ngài có cho tôi biết hay không cho tôi biết các Ngài gặp ai, tùy ý các Ngài. Tôi nêu ra điều này vì tình hình ở đây đặc biệt. Huế là một thị xã Phật Giáo. Quân đội và Chính Phủ rất kính nể Phật Giáo, và chúng tôi không thể làm tròn nhiệm vụ nếu chúng tôi không kính nể Phật Giáo. Rất cần nói rõ rằng nhân viên quân sự và hành chánh đối xử với Phật Giáo thế nào.
c- Vấn đề phát thanh 'và bạo loạn
Ông Volio: “Theo truyền thống về các dịp lễ và theo tiền lệ và thỏa hiệp về trước với chính quyền đài phát thanh sở tại phát thanh băng của những buổi lễ Phật Giáo, có phải vậy không?"
Tư lênh Quân Đoàn I: " Mỗi khi có lễ tôn giáo thì nghi thức buổi lễ đó được diễn lại. Đó là truyền thống. Nhưng các bản văn phải được nhân viên duyệt xét trước để xem trong đó có tuyên truyền chính trị chống chánh phủ không. Họ có quyền tự do phát thanh tất cả những gì họ muốn nếu chỉ nói về tôn giáo và tránh pha lộn chính trị vào. Đấy là truyền thống áp dụng cho tất cả các tôn giáo, dù là Phật Giáo hay Công Giáo" (tr.78).
Ông Volio: "Tối ngày 8/5 một vị sư mang băng về lễ Phật Giáo đến đài phát thanh sở tại và ông giám đốc đài từ chối không phát thánh băng đó, có đúng không, và tại sao? ‘'
Tư lênh Quân Đoàn I: "Điều đó không đúng. Thông điệp được thâu băng lúc buổi sáng để phát thanh vào buổi tối. Nhưng có một điều khác là Thượng Tọa Thích Trí Quang thừa cơ hội chèn vào băng một số đoạn chống chính phủ, và ông giám đốc muốn cắt bỏ nhiều đoạn chứa thóa mạ chính phủ. Họ không chịu, và Phật tử tìm cách xông vào đài phát thanh để phá hoại, và bạo loạn xảy ra".
Ông Volio: "ông có thể cho tôi thêm chi tiết bạo loạn xảy ra thế nào?"
Tư lênh Quân Đoàn I : "Buổi tối phát thanh, Phật tử đệ tử của Thượng Toạ thích Trí Quang tập họp xung quanh đài phát thanh để làm áp lực với ông giám đốc đài buộc ông phát thanh toàn bộ băng, kể cả những thóa mạ chống chính phủ. Ông giám đốc từ chối, do đó xảy ra bạo loạn" (tr.78)
Mr. Volio: "Hơi độc đã được xử dụng để giải tán biểu tình ngày 8/6, có đúng vậy không."
Tư Lệnh Quân Đoàn I: " Hơi độc không hề được dùng để giải tán biểu tình ngày 8/6, như báo chí và Phật tử cực đoan nói...chúng tôi dùng hơi làm chảy nước mắt....loại hơi được dùng ở tất cả những nơi khác trên thế giới trong những trường hợp tương tự." (tr.78)
d. Phật Giáo, Công Giáo, 'Khổng Giáo
Ông Gunewardene: "Ông thừa nhận rằng Huế là một thị xã Phật Giáo. Huế có phải là một trung tâm văn hoá Phật Giáo ở Việt Nam không? Theo tin tức tôi thâu l­ợm được, chỉ có 5 % dân số Huế là Công Giáo, có phải vậy không?" .
Đai biểu Chính phủ: "Tôi có thể nói ngay với Ngài rằng, về phần Công Giáo, thì họ có ghi danh cả, cho nên có bao nhiêu người theo Công Giáo có thể biết dễ dàng. Còn phân biệt Phật Giáo và Khổng Giáo là một việc khó. Khi ngư­ời ta tìm gốc Phật Giáo - nghĩa là tìm ngư­ời có pháp danh Phật Giáo và có ghi danh tại một chùa - số đó không đầy 10%. Khổng Giáo và Phật Giáo lẫn lộn nhau. Trên nguyên tắc, tất cả người Việt Nam đều là Khổng Giáo, nhưng nay một số đi chùa và cũng theo Phật Giáo. Họ mời sư về nhà họ để làm những nghi thức Phật Giáo và có cảm tình với Phật Giáo tuy rằng họ không hẳn là Phật Giáo."
Ông Gunewardene: "Trước Phật Đản có lễ 25 năm ông Thục được phong Giám mục?"
Đai biểu Chính phủ: "Phải".
Ông Gunewardene: "Cuộc lễ kéo dài bao lâu, và nó chấm dứt khi nào."
Đai biểu Chính phủ: "Lễ này xảy ra sau ngày 8/5, không phải trước đó."
Ông Gunewardne: "Nhưng vào dịp này cũng có làm lễ cách này hay cách khác chứ."
Tư lênh Quân Đoàn I: "ông này được phong Tổng Giám Mục lâu năm rồi, còn lễ 25 năm ông được phong Giám Mục là sau ngày Phật Đản".
Đai biểu Chính Phủ: "Tôi nhớ rằng lễ cử hành rất giản dị, chỉ có vài linh mục và vài công chức dự một bữa cơm trưa."
Viện Trưởng Đai Học: "Đó là ngày 28/6."

1, 2

@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:

facebook

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site