lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin: (Blogs; Anh Ba Sàm; Cầu Nhật-Tân; Chu-Mộng-Long; Cu Làng Cát; Dân Làm Báo; Dân Oan Bùi-Hằng; Diễn-Đàn Công-Nhân; Diễn-Đàn Công-Nhân;Giang-Nam Lãng-Tử; Huỳnh-Ngọc-Chênh; Lê-Hiền-Đức; Lê-Nguyên-Hồng; Lê-Quốc-Quân; Mai-Xuân-Dũng; Người Buôn Gió; Phạm-Hoàng-Tùng;Phạm-Viết-Đào;Quê Choa VN)

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Chết Bởi Trung Cộng:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Vietnam Human Rights - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Southeast Asia Sea:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tòa Án Hình Sự Quốc Tế Về Việt-Nam và Trung Quốc:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963 - 2013 :

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Weblinks:

 

Cây có cội, nước có nguồn. Toàn dân Việt-Nam ngàn đời ghi nhớ ân đức Quốc Tổ Hùng Vương

Quân Sử Việt Nam Cộng Hòa

Thư-Viện Bồ Đề Online_Thư-Viện Hoa Sen Online

nơi hội tụ của những tâm hồn trăn-trở về nhân-sinh quan và vũ-trụ quan đồng thời xiển-dương Chánh Tín_bài trừ Mê-Tín Dị Đoan 

Xin mời Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử trên Facebook

 

Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống 3

Nguồn: Bảo Vệ Cờ Vàng

tổng thống ngô đình diệm

TẬP I   

Chương 1: ĐỊNH MỆNH ĐÃ AN BÀI

Chương 2: NGƯỜI SỐNG VÀ NGƯỜI CHẾT

Chương 3: TRONG THẾ GIỚI CỦA QUYỀN UY VÀ CÔ ĐƠN

Chương 4: TỔNG THỐNG DIỆM VÀ CÔNG GIÁO

Chương 5: TỪ CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐẾN CÁI CHẾT CỦA NGÔ ĐÌNH CẨN

Chương 6: TRƯỜNG HỢP BÀ NGÔ ĐÌNH NHU

Chương 7: CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NGƯỜI MỸ

   TẬP II  

Chương 8: PHẬT GIÁO VÀ TỔNG THỐNG DIỆM

Chương 9: DIỄN TIẾN CỦA MỘT CUỘC BINH BIẾN

Chương 10: TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG

Chương 11: BẢY NĂM SAU CUỘC PHONG TRẦN

Chân Thành Ghi Ân

Quý thượng tọa, linh mục, đại đức, quý nhân sĩ, quí vị tướng lãnh và sĩ quan, quí văn nhân ký giả cùng các nhân chứng trong biến cố và thân hữu của chúng tôi đã cung cấp cho chúng tôi những tài liệu sống và quan yếu nhất để hoàn thành thiên Bút Ký này.

Lương Khải Minh và Cao Vị Hoàng tức Cao Thế Dung

Vài nét về Sử Gia Cao Thế Dung

Sử gia Cao Thế Dung, giáo chức lâu năm của hệ thống giáo dục Lasan Taberd Sài Gòn, nguyên Phụ Tá Viện Trưởng Viện Khoa Học Giáo Dục Sài Gòn , nguyên Phó Khoa Trường Đại Học Bách Khoa Nông Nghiệp Viện ĐHHH tại Sài Gòn. Năm 1973, GS Dung làm Tổng Quản Trị Hiệp Hội Nông Dân Trung Ương thuộc Bộ Canh Nông, một tổ hợp nông doanh lớn vào bậc nhất của VNCH. Di cư qua Mỹ năm 1975, GS Dung được cơ quan văn hóa THE FORD FOUNDATION cấp cho học bổng toàn thì (Research Fellowship) để nghiên cứu thị trường lúa gạo (1975-1977), đồng thời trở lại trường theo học tại đại học Georgetown, Columbia. Sau khi tốt nghiệp văn bằng tiến sĩ (Ph.D), GS Dung trở thành chuyên gia phân tích thị trường, chuyên biệt về phó sản và gạo lúa, hiện là Tham Vấn Viên cho Tổ Hợp Khảo Sát Tài Nguyên Kinh Tế Đông Nam Á.

Về văn nghệ và báo chí: 1959 GS Dung cùng với nhà văn Thế Phong thành lập nhóm Đại Nam Văn Hiến. Từ 1966, ông trở thành một trong mấy cây viết trụ cột của nhật báo Chính Luận. Cùng với nhà thơ Nguyên Sa, phụ trách mục “Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ” trên báo Sống của nhà văn Chu Tử. Chủ bút tạp chí tranh đấu Quần Chúng (SG 1968-1970), thư ký tòa soạn tạp chí Giáo Dục (Viện Khoa Học Giáo Dục Sài Gòn 1970-1972), chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Hành Trình ( Hoa Kỳ 1978-1979)

Tác phẩm đã xuất bản: Khúc Ca Nhược Tiểu (thơ ĐNVH-Saigon 1960 bút hiệu Cao Đan Hồ), Văn Học Hiện Đại (Thi Ca Thi Nhân-Phê Bình Văn Học 1969), Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống (Bút ký lịch sử, 1971), Lịch Sử Văn Minh Nông Thôn (Đại học BKNN,1974).

Tác phẩm Anh ngữ đã hoàn tất: “The Role of the Chinese Merchants in VN’s rice maket 1865-1965″ ( Luận án tiến sĩ, 1980).

Đang thực hiện: “Vietnam’s Biographical Dictionnary” và “Việt Nam Trăm Năm Máu Lửa” (…từ Cách Mạng Tháng Tám đến Điện Biên Phủ- sự thực về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam)

Vài nét về Bác Sĩ LƯƠNG KHẢI MINH

Lương Khải Minh là bút hiệu của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Ông đậu cử nhân Luật khoa năm 1952 tại Đại Học Hà Nội, tốt nghiệp khóa đầu tiên của Đại Học Quân Y Hà Nội năm 1954 với cấp bậc trung úy. Sau khi chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa thành lập, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến được Tổng Thống Ngô Đình Diệm ủy thác thành lập cơ sở tình báo chiến lược chính trị dưới danh xưng:” Sở Nghiên Cứu Chính Trị Và Xã Hội Phủ Tổng Thống” mà ông là giám đốc cho đến tháng 9 năm 1963; và Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đã trở thành nhân vật quyền uy hàng đầu của Chế Độ.

Trong 9 năm làm ngành Tình Báo Chiến Lược, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến nổi tiếng về đức thanh liêm, nhiều tình cảm và nghệ sĩ. Ngoài ra, ông còn là cây bút trụ cột của nhật báo Xây Dựng, và là bình luận gia thường trực của nhật báo Chính Luận (1964-1975). Bác Sĩ Trần Kim Tuyến viết báo dưới bút hiệu Thảo Lư, và là dịch giả cuốn “Thân Phận Con Người” (La Condition Humaine) của Le Comte De Noue (1953).

Trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên đường chạy đến Tòa Đại Sứ Pháp tị nạn, bác sĩ Trần Kim Tuyến được một ký giả ngoại quốc cứu thoát. Hiện nay ông cùng với gia đình tị nạn tại Anh Quốc trong một cuộc sống rất đơn sơ, thanh bạch.

(Cơ sở Văn Hóa Đông Phương)

---

TRONG THẾ GIỚI CỦA QUYỀN UY VÀ CÔ ĐƠN

CÂU HỎI GIAO DU

Sau ngày đảo chánh, một số đông các sĩ quan thuộc LĐLBPVPTT đều bị bắt giữ. Mấy Sĩ Quan Tùy viên đều phải trả lời một số câu hỏi như: “Có thấy những người đàn bà nào vào phòng riêng của TT Diệm? TT Diệm có “giao du” với bà Nhu không?” Đại Úy Lê Công Hoàn, một sĩ quan tùy viên phục vụ bên cạnh TT Diệm 5 năm đã trả lời trên giấy tờ: “Tôi quả quyết không bao giờ có chuyện như vậy nếu có mà tôi bảo là không tôi xin chịu mất đầu”.

Vậy thì sự tương quan trong nếp sống gia đình thường nhật giữa vợ chồng ông Nhu và TT Diệm ra sao?

TT Diệm ở trong một căn phòng riêng, ngủ trên tấm đi văng gỗ.

Mỗi tối, ông già Ẩn chăng màn, sáng sớm lại tháo gỡ. TT Diệm thường dùng bữa ngay trong phòng ăn này. Ông vẫn ăn một mình trong suốt 9 năm, trừ những buổi tiệc tùng dạ hội. Đối với gia đình ông Nhu thì TT Diệm sống một thế giới riêng. Rất ít khi TT Diệm ăn cơm chung với gia đình ông Nhu. Hoặc khi sang phòng ông Nhu dùng cơm thì TT Diệm dùng món ăn riêng của ông. Trong Dinh có hai đầu bếp. Một đầu bếp của vợ chồng ông Nhu. Một đầu bếp của TT Diệm. Đầu bếp của TT Diệm thì rất nhàn hạ. Sáng ông điểm tâm bằng cháo trắng với dưa chua hoặc cá thu kho mặn. Trưa ông Tổng Thống không mấy khi ăn cơm mà chỉ dùng trái cây hoặc rau xà lách trộn dầu hoặc súp lơ, cải bắp luộc. Bữa chính của ông là bữa tối. Thứ cơm mà ông dùng là gạo lứt đỏ.

Món ăn của ông không thay đổi qua mấy món như mắm ruốc, dưa thịt kho, cá kho, cải xào. Tóm lại ông ăn uống như người trung lưu của xứ Quảng Bình hay Huế.

Thông lệ, mỗi sáng sĩ quan tùy viên đem vào phòng một xấp báo đủ loại. Ông vừa đọc vừa ăn điểm tâm.

Thỉnh thoảng, có gì đặc biệt lắm ông mới sang phòng của vợ chồng ông Nhu ngồi uống nước, chuyện lan man. Theo sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn cũng như Đại Úy Bằng, ông già Ẩn thì ông Diệm và ông Nhu không mấy khi anh em hàn huyên tâm sự. Ông rất kính trọng Đức Cha Thục theo quan niệm “Quyền huynh thế phụ”.

Trước khi qua Rome, dự Công Đồng Vatican II Đức Cha Thục vào Dinh ở lại vài ngày. Như thường lệ, đức cha Thục vào chào ông em Tổng Thống.

Theo sĩ quan tùy viên Hoàn thì anh em TT Diệm rất giữ lễ với nhau chứ không suồng sã tự nhiên. Khi về đến Dinh, Đức Cha Thục thường dùng cơm với ông bà Nhu và mỗi lần như vậy , TT Diệm ghé qua phòng ông em nhân tiện đáp lễ ông anh. Đức Cha Thục nói gì TT Diệm nghe không vừa ý, TT Diệm chỉ thở dài, cau có và hết sức bẳn gắt với sĩ quan tùy viên. Cũng không mấy khi ông bà Nhu vào phòng riêng của TT Diệm trừ mấy đứa con trai của ông Nhu.

Căn phòng riêng của TT Diệm vừa là phòng ngủ, vừa là chỗ làm việc, bao giờ cũng có hai cận vệ gác ở ngoài với một sĩ quan tùy viên túc trực suốt ngày đêm (thay phiên như làm việc theo từng ca). Bất kỳ một ai viếng thăm về phía quân sự đều qua tay sĩ quan tùy viên (sự sắp xếp do Tham Mưu Biệt Bộ). Sự thăm viếng về dân sự và ngoại giao đoàn đều do Nha Nghi Lễ đảm trách.

Không kể Đỗ Thọ đã chết, 3 sĩ quan tùy viên còn sống (trong đó có Đại Úy Lê Châu Lộc) cùng với Đại Úy Bằng hầu cận đều cho biết: “Họ không hề bị ông bà Nhu chi phối. Gặp ông bà ấy thì chào hỏi vậy thôi. Họ làm việc trực tiếp với TT Diệm và làm việc theo kiểu “người nhà” phi nguyên tắc luật lệ. Vào phòng ông tổng thống lúc nào cũng được và cửa phòng ông không bao giờ khóa mà chỉ khép. Người được coi là ngang ngược và hay gây gổ với bà Nhu là ông Đại Úy Bằng. Thế giới của TT Diệm là thế giới tình cảm”.

Qui tụ quanh ông, phái cao cấp là ông Võ Văn Hải, gần ông Tổng Thống là Bí Thư Trần Sử rồi 4 viên sĩ quan tùy viên, ông già Ẩn, Đại Úy Bằng và mấy người thân cận khác. Tìm hiểu cuộc sống riêng tư và tâm tình của một Tổng Thống không gì bằng tìm hiểu ngay những người thân cận quanh ông và nếp sống thường nhật. Tại một nước Cộng Sản, cá nhân lãnh đạo chưa phải là yếu tố quan hệ bậc nhất. Tập thể lãnh đạo mới là điều quan hệ và chi phối toàn thể. Tại các quốc gia Tây Phương có một cơ chế cai trị vững chắc và một truyền thống dân chủ thì một cá nhân lãnh đạo cũng chưa phải là một yếu tố quan trọng bậc nhất.

Nhưng ở Việt Nam thì lại khác. Con người quốc gia ở miền Nam lại hoàn toàn khác hẳn. Cá nhân lãnh đạo trở thành yếu tố quan trọng bậc nhất và chi phối toàn thể, cho nên đời sống riêng tư và tâm tình của một Tổng Thống lãnh đạo trở thành nguyên động lực tiềm ẩn chi phối con đường lãnh đạo và cai trị vào đời sống riêng tư ấy tự nó đã có giá trị để nhận định con người lãnh đạo quốc gia. Thói quen hút thuốc lá, ăn cơm Tây uống rượu mạnh, hay thú trăng hoa hoặc hay ưa nói bậy, thích tuyên bố lăng xăng thì tự nó đã lập thành bản chất và sự lãnh đạo quốc gia cũng như ủy quyền và danh dự của nhà lãnh đạo cũng tùy thuộc vào bản chất này. Vận mệnh và danh dự quốc gia cũng lại tùy thuộc vào bản chất này.

Bởi vậy viết về giai đoạn lịch sử 1955-1963 không thể bỏ qua phần tìm hiểu con người TT Ngô Đình Diệm để từ đó soi sáng một tâm lý chính trị.

Tâm lý chính trị này là một phần căn bản giúp cho sử gia dễ dàng phân tích và dẫn giải các sự kiện lịch sử qua hướng đi của nó qua sự chèo lái của nhà lãnh đạo.

Tổng Thống Diệm thích làm thơ. Tất nhiên là thơ Đường Luật. Ông còn biết vẽ và nét vẽ rất đẹp. Bức vẽ cuối cùng của ông là ngôi Thánh đường dự định sẽ xây cất ở khu Phượng Hoàng. Ông đã có ý định không ra ứng cử TT nhiệm kỳ 1965 và sẽ lui về sống an dưỡng ở khu Phượng Hoàng.

Trước đó, đã có một dự án chỉnh trang toàn thể khu Cồn Hến tại Huế để làm nơi TT Diệm trở về vui thú điềm viên. Khu này được coi là một trong mấy nơi thơ mộng nhất của Huế cách thôn Vĩ Dạ chỉ một con sông. Khi dự án được trình lên, ông TT không vừa ý và cho dẹp bỏ.

Rồi tự tay ông phác họa khu Phượng Hoàng. Ngôi Thánh Đường cũng tự tay ông vẽ. TT Diệm ưa thích đánh cờ tướng nhưng lại không phải là tay cao cờ.

Nhiều lần, trong lúc cao hứng, ông cho gọi đại úy Bằng và Ngô Đình Trác vào phòng riêng của ông bảo hai người đánh cờ để ông ngồi ông xem, ông có thể ngồi như vậy trong một, hai giờ liền.

Thú lớn nhất của ông là chụp hình. Thỉnh thoảng cao hứng ông lai đưa bọn con ông Nhu ra chụp vài “pô” hay chụp mấy viên sĩ quan tùy viên.

Tướng Lê Văn Kim được coi là “người bạn” của Tổng Thống về phương diện chụp hình và rửa hình. Một lần vào năm 1961, vợ chồng BS Trần Kim Tuyến đang coi ciné ở Đại Nam thì có thuộc viên đến tìm, cho biết: “Tổng Thống điện thoại gọi BS vào Dinh gấp” Hai vợ chồng bỏ dở xuất ciné trở vào Dinh. Bà vợ ngồi dưới xe chờ chồng từ 10 giờ sáng đến gần 2 giờ chiều mới thấy chồng trở ra. Nhân chứng được ông TT tiếp gần 4 giờ liền không ngoài việc máy ảnh và chụp hình. Vì ông mới mua một cái máy Canon cho nên gọi nhân chứng vào để chỉ cho cách xử dụng.  Mỗi lần như thế ông Diệm rất vui tươi cởi mở.

Đặc biệt TT Diệm không uống được rượu, chỉ cần làm một hớp nhỏ, mặt ông đã đỏ gay… Tuy vậy trong phòng ông cũng có một chai rượu nho, thỉnh thoảng ông nhấm nháp đôi chút và những lần như vậy giới hầu cận đều biết ngay là Tổng Thống gặp chuyện vui. Đầu bếp trong Dinh phải chế tạo riêng một loại xâm banh. loại xâm banh này chỉ là nước ngọt cho vào chai đúng “marque champagne” hảo hạng và khi mở cũng nổ chát xùi bọt như xâm banh thực. Khi có tiệc lớn cùng dự với các Đại sứ và quốc khách thì ông Thổng Thống dùng xâm banh loại này. TT Diệm ăn uống không có giờ giấc nào cả. Bữa cơm chiều có thể là 8 giờ hoặc 10 giờ…Khi gặp ai vui chuyện, TT Diệm có thể mạn đàm lan man cả 2, 3 giờ liền. Ông hay dùng pate chau ở Bưu điện và ông cho là ngon tuyệt hạng. Giá mua 5 đồng một cái nhưng bà Nhu dặn bồi bếp nói cụ hỏi bao nhiêu thì phải nói là 1 đồng. Bà Nhu giải thích: “ Nói như thế để ông Cụ được vui”. TT Diệm vẫn tấm tắc khen ngợi: “Pâté chaud 1 đồng, mà ngon quá bay ơi! Như vầy thì lương lính nó được 900 đồng, vợ con nó cũng sung sướng quá hỉ?”,

Như trên đã viết ông Diệm rất kính trọng và vâng lời các anh. Ông lại luôn luôn sống xa mẹ. Sau khi từ chức Lại Bộ Thượng Thư triều đình Huế (1933) ông không về sống ở Phú Cam mà về ở trong một ngôi nhà của ông Ngô Đình Khôi tại Vĩnh Điện, Quảng Nam. Ngồi nhà đó chỉ có ông Diệm và ông Bằng lo việc cơm nước, quần áo và mọi sự cho ông Thượng Thư, một vài tuần ông lại về Phú Cam một buổi. Vài tháng ông lại vào Nam. Từ dạo đó, ông đã sống một đời khép kín, đi hay về không ai hay biết. Khi ông Ngô Đình Khôi bị giết năm 1945, Đức cha Thục trở thành người có ảnh hưởng nhất đối với TT Diệm. Qua tập Album của gia đình họ Ngô ta thấy Đức cha Thục và ông Diệm hay cùng nhau chụp ảnh, hai người tỏ ra tương đắc.

Chúng tôi nêu lên một sự kiện này một sự kiện lịch sử để thấy rằng cái tình huynh đệ gia đình của một ông Tổng Thống đã quan hệ đến cả vận mệnh quốc gia.

Năm 1963 là năm Ngân khánh của Đức Cha Thục. Theo truyền thống Thiên Chúa Giáo thì đây là một dịp trọng thể, đánh dấu công nghiệp của một đời tu hành. Lễ này thường do giáo dân đứng lên tổ chức để tỏ bầy kính mến đối với bậc chăn chiên của họ. Giả dụ Đức Cha Ngô Đình Thục không phải là anh ruột của một vị đương kim Tổng Thống thì lễ này có tổ chức long trọng đến mấy cũng không có gì đáng nói vì đó là sự thường tình trong nếp sống tôn giáo. Nhưng Đức Cha Thục lại là anh ruột của một Tổng Thống (chúng ta sẽ phân tách rõ ở chương vụ Phật giáo 63).

Từ đầu tháng 1-63, các giới chức dịa phương và trung ương đã rộn dịp thi đua “góp công” vào việc tổ chức lễ Ngân Khánh của Đức Cha. Có một số địa phương tại miền Trung, Tỉnh trưởng lại đi thu góp tiền bạc để góp phần vào lễ Ngân Khánh cho thêm long trọng. Rồi một ủy ban toàn quốc được thành lập đứng đầu là ông chủ tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lễ sau là BS Cao Xuân Cẩm cùng các ủy viên gồm một số Bộ Trưởng, Dân Biểu. Linh Mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Đại Học Huế cũng được mời tham dự. Cha Luận lấy làm khó chịu nhưng không thể khước từ nên phải nói: “Là một Linh Mục sống trong địa phận của Đức Cha thì có bổn phận vâng kính Đức Cha. Ông Bộ Trưởng Giáo Dục, Viện Trưởng Đại Học Saigon cũng tham dự thì Viện Trưởng Đại Gọc Huế cũng xin vui về tham dự”. Một mặt Cha Luận biên thư cho ông Chủ Tịch Quốc Hội xin tham dự vào Ủy Ban để cho vừa lòng đẹp ý người đến mới.

Mặt khác, cha Luận đến gặp riêng ông Ngô Đình Cẩn vì Cha Luận vẫn được coi là một vị linh mục có nhiều ảnh hưởng đến gia đình họ Ngô (cũng như Lm Nguyễn Văn Thính, Lm Nguyễn Văn Lập. LM Nguyễn Viết Khai). Cha Luận khuyên ông Cẩn nên tìm cách ngăn cản để làm thế nào lễ Ngân Khánh tổ chức trong vòng thân mật và thu hẹp vì từ ngày Đức Cha Thục ra trọng nhậm giáo khu Huế đã gây nên nhiều ngộ nhận trong giới Phật Giáo. Nếu lễ Ngân Khánh tổ chức quá rầm rộ ở ngay tại Cố Đô Huế e rằng bất lợi. Ông Cẩn cho là phải và rất đồng ý với Cha Luận nhưng ông Cẩn cho biết: “Từ ngày Đức Cha về đây, Đức Cha có coi tôi có ra cái gì đâu. Tôi làm sao nói được xin nhờ Cha vào Saigon gặp thẳng Tổng Thống để nói cho rõ sự lợi hại”. Hôm sau, cha Luận vào Saigon xin gặp ông Ngô Đình Nhu.

Ông Nhu cũng đồng ý như vậy và cho rằng không thể lẫn lộn tôn giáo với quốc gia, ông Nhu than thở với Cha Luận là ông không biết phải làm thế nào vì thẳng ra sợ phật lòng Đức Cha – bậc quyền huynh thế phụ đối với gia đình họ Ngô. Trước năm 1953 ông Nhu vẫn bị ngộ nhận là con người chống lại hàng giáo phẩm. Ông Nhu phàn nàn với Cha Luận đại cương: “Thân sinh tôi mất rồi thì chỉ còn Đức Cha là bậc quyền huynh thế phụ. Tôi không biết phải nói thế nào, ông Cụ thì cả nể Đức Cha lắm. Từ ngày Đức Cha về Huế, ở đây tôi mới “rảnh rang”…Khi Đức Cha còn ở Vĩnh Long thì thứ bảy chủ nhật nào bọn họ cũng rủ nhau xuống Vĩnh Long cả nội các, cả quốc hội. Biết là phiền phức nhưng không làm thế nào được”. Ông Nhu một lần nữa nhờ riêng Cha Luận nói rõ hơn thiệt với Tổng Thống. Tất nhiên ông Nhu còn không dám nói với TT Diệm thì Cha Luận sức nào dám nói thẳng sự hơn thiệt.

Mặc dầu lễ Ngân Khánh đã được sửa soạn chu đáo nhưng không được như dự định vì xẩy ra vụ Phật giáo (ngày 8-5-63).

Trước đó, TT Diệm cũng không dám bãi bỏ Uỷ Ban toàn quốc tổ chức lễ Ngân Khánh vì sợ làm phật lòng bào huynh mặc dầu ông Nhu cũng nói “xa gần” với giọng ray rứt trách móc Tổng Thống làm sao lại để cho nhân viên Chính Phủ và Quốc Hội đứng ra tổ chức lễ Ngân Khánh. Theo thường tình, giáo dân có quyền tổ chức một ủy ban toàn quốc như vậy. Song ông Chủ Tịch QH là Chủ Tịch Ủy Ban, thì quả là điều “chướng mắt” khó coi cho dù ông là giáo dân… Có lẽ vì vậy mà BS Cao Xuân Cẩm đứng ra làm Chủ tịch (?)… nhưng cũng không phá tan được sự ngộ nhận “dĩ công vi tư và lạm dụng uy thế của TT Diệm”

 HÀNH HƯƠNG VĨNH LONG

Tổng Thống Diệm quá nặng tình nghĩa gia đình. Gia đình đó lại sống theo quan niệm “đóng cửa bảo nhau“. Cho nên, dù anh em mâu thuẫn bất hòa người bên ngoài cũng không mấy ai biết ngoại trừ những người thân cận sống lâu năm trong gia đình họ Ngô.

Trong 9 năm kháng chiến, Đức Cha Thục không tỏ rõ một thái độ nào có thể minh chứng khuynh hướng chính trị của Đức Cha. Khác hẳn những khu Phát Diệm, Bùi Chu, Giáo khu Vĩnh Long luôn luôn đứng ra ngoài vòng của cuộc chiến. Những gia đình quen biết của Đức Cha Thục như Phạm Ngọc Thảo, Kiều Công Cung đã theo kháng chiến ngay từ buổi đầu cho đến năm 1954. Linh Mục Lu Vinh thuộc xứ đạo Bến Tre cũng đã từng tham gia kháng chiến. Linh mục này được coi như con cưng của Đức Cha Thục. Năm 1961, Linh Mục Lu Vinh cũng như ông Sáu Nhân (tức Hoàng Xuân Việt) đều được Đức Cha gửi vào ở tạm tại Nhà Dòng Đồng Công Thủ Đức. Cha Lu Vinh đã có lần tâm sự rất nhiều về Đức Cha Thục và đề cho rằng Đức Cha trước năm 1954 rất khác Đức Cha sau năm 1954 và càng ngày càng bị vây hãm bị lợi dụng dấn mình quá sâu vào đời sống chính trị của các em.

Vào khoảng tháng 6 năm 1960, Nhân một buổi lễ trọng thể tại Vĩnh Long (buổi lễ thuộc phạm vi tôn giáo). Thế nhưng từ sáng sớm đã có hàng trăm xe hơi nối đuôi nhau trên con đường “hành hương” Vĩnh Long. Hầu hết là các Bộ Trưởng, Dân Biểu, Tướng tá, công chức cao cấp. Vì có hàng trăm xe của nhân viên chính quyền cho nên Bắc Mỹ Thuận bị kẹt, xe hàng, xe dân bị ứ lại dài cả hàng cây số và phải đợi hàng 2, 3 tiếng đồng hồ mới được khai thông. Một nhà báo Mỹ cũng bị kẹt trong đám xe đó. Khi trở về Saigon ông ta tỏ ý phàn nàn và phê bình gay gắt với nhân chứng Lương Khải Minh.

Nhà báo Mỹ thì lúc nào chẳng tìm cách làm “sì căng đan”. Lương Khải Minh tìm cách biện minh cho nhà báo vui vẻ, bỏ qua sựu phiền muộn. Nhân chứng cho ông Ngô Đình Nhu rõ tự sự, ông Nhu mặt đỏ tía tai đập tay vào bàn rồi gọi điện thoại cho ông Chủ Tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lễ: ” Làm cái gì mà kỳ vậy. Xuống đấy làm cái gì mà lố vậy. Tôi nhờ ông bảo bọn họ ngưng ngay cái trò đó đi”.

Ông Nhu không thích là chuyện của ông Nhu

Con đường Saigon – Vĩnh Long vẫn tấp nập khách công hầu. Ông Nhu thường phàn nàn với nhân chứng Lương Khải Minh “Bây giờ Nội Các và Quốc Hội họp ở Vĩnh Long mà!”

Như trên đã viết, TT Diệm bị chi phối mạnh mẽ bởi tình nghĩa gia đình thân thuộc. Chữ Lễ đối với ông là một điều quan trọng không thể thiếu. Tiếc rằng chữ Lễ trong tinh thần Nho giáo tuy tạo đuọc thể thống về phương diện quốc gia song cái thực tại của xã hội giữa thế kỷ 20 đã làm cho chữ lễ của ông Tổng Thống trở nên những hình thức phù du và làm cho ông lạc lõng và càng cô xa lạ trong một thế kỷ mà nấc thang giá trị cũ chỉ còn như áng mây chiều.

Một bọn nịnh thần lại luôn luôn bám vào chữ Lễ của ông Tổng Thống để che đậy những manh tâm… Chữ Lễ với giá trị cao cả của nó trong tình nghĩa của nếp sống Đông Phương lại trở thành chiếc gậy thần của một số “phù Thủy” xúm nhau lại suy tôn và thần thánh hóa Ngô Tổng Thống … Ông Tổng Thông càng thêm lạc lõng và chữ lễ biến thành vùng ảo tưởng vây bọc lấy ông.

Tổng Thống Diệm làm việc ngay trong phòng riêng. Ông ngồi trên chiếc ghế bành trước một chiếc bàn tròn và ở đó ông phê chuẩn, khán ký, cũng như xem xét hồ sơ công việc và bàn xét quốc sự. Nếu không phải tiếp khách ngoại quốc hay các phái đoàn, ông làm việc trong phòng cả buổi sáng buổi chiều như vậy. Thường thường ông mặc chiếc áo dài đen. Không bao giờ Tổng Thống mặc đồ ngủ tiếp khách thì theo thói quen ông cũng xốc lại cổ áo nắn lại chiếc Cravate rồi cầm lược chải đầu, gọi bồi lau lại đôi giày .

CHỮ LỄ TRONG TINH THẦN NHO GIA

Những ngày đầu vào Dinh Gia Long làm việc nhân chứng Lương Khải Minh còn trẻ lại quen tính ăn mặc lè phè. Mấy lần vào phòng làm việc của ông Tổng Thống, đương sự chỉ mặc áo cổ bẻ, cộc tay, bỏ ngoài quần và đi dép quai da. Đương sự không để ý đến sự khó chịu của ông Tổng Thống nên cứ tiếp tục ăn mặc như vậy. Sau TT Diệm gọi thẳng bà Nhu phiền trách “Thiếm phải lo cho chú ấy ăn mặc đàng hoàng. Chú ấy ăn mặc lôi thôi mấy đứa nó bắt chước, mất cả thế thổng. Thằng cha nó ăn mặc cái gì mà lôi thôi quá”. Từ đó đương sự phải để sẵn trong văn phòng một bộ Complet Cravate.

Nếu Tổng Thống cho gọi là phải ăn mặc cho đầy đủ lễ bộ. Giầy mà không có giây thắt, ông Tổng Thống cũng cho là một sự thất lễ. Một lần Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần vào Dinh mặc chiếc áo “veste” mới may, xẻ phía sau lưng theo mode mới liền bị Tổng thống nhìn một lúc lâu rồi khen “ông Bộ Trưởng mua chiếc áo xẻ lưng đep quá hỉ?” Ông Tổng Thống cho rằng làm lớn ăn mặc như thế không hợp với thể thống. Từ đó, Nguyễn Đình Thuần biết ý phải cố ăn mặc làm sao cho vừa ý Tổng Thống.

Cũng vì một chữ thể thống mà một sĩ quan đã thắng được một vụ kiện. Quan tòa là ông Tổng Thống, bà Nhu là nguyên cáo. Khi Quốc Vương và Hoàng Hậu Thái Lan qua thăm Việt Nam thì bà Nhu đóng vai “tiếp viên của Quốc Gia” (Hotesse) để nghênh đón Hoàng Hậu Thái về Dinh Độc Lập viếng Tổng Thống Việt Nam theo nghi lễ rồi trở về Dinh Gia Long nghỉ. Tổng Thống Việt Nam cũng đến Dinh Gia Long để đáp lễ, cùng đi theo có bà Nhu. Lúc trở ra, bà Nhu đi sau Tổng Thống. Viên sĩ quan hầu cận cản lại và nói “Bà không được đi cùng. Theo nghi lễ bà phải đi sau 5 phút“. Bà Nhu nổi giận phản đối. Viên sĩ quan dẫn chứng theo “sách” “Bà đâu có phải là vợ của Tổng Thống mà được phép trở về dinh cùng một lúc. Tôi cứ theo nghi lễ của ông Hoàng Thúc Đàm. Tổng Thống phải về Dinh trước, năm phút sau bà mới được ra về”. Bà Nhu nổi giận mà đành phải chịu.

Nhưng sau đó bà về mách ông Nhu và sang tận phòng Tổng Thống kiện. Ông Tổng Thống sai gọi viên sĩ quan hầu cận (Đại Úy Bằng) và “đối chất“. Bà Nhu nói theo lẽ của bà Nhu. Viên sĩ quan nói theo lẽ của viên sĩ quan và nhấn mạnh làm như thế để giữ thể thống Quốc Gia. Ông Tổng Thống không nói một câu rồi cho cả hai người ra về.  Bà Nhu rất hậm hực về thái độ lặng thinh của ông anh Tổng Thống. Sau buổi chiều ông qua phòng ông bà Nhu và tuyên án “Nó nói đúng. Tính nó ngang ngược như rứa thôi bỏ qua”.

Người em của bà Nhu tức Trần Văn Khiêm cũng đã gây nên nhiều sự phiền phức cho ông Tổng Thống. Anh ta ưa phách lối, làm le và dọa nạt nhiều người. Có lần (tháng 10-63) anh ta dọa ném lựu đạn giết cả nhà bác sĩ Trần Kim Tuyến. Sự lạm dụng và phách lối của Trần văn Khiêm đến tai TT Diệm, ông Tổng Thống cũng không biết làm thế nào hơn là ra lệnh cho sĩ quan mở cuộc điều tra riêng. Việc đến tai bà Nhu. Bà lại tìm mọi cách che chở em rồi tìm cơ hội “mách” ông Tổng Thống về những “lạm dụng” của đám người thân bên cạnh ông Tổng Thống. Do đó, trong 9 năm, ông Diệm luôn luôn phải xử những “vụ án” ngay trong nội bộ của Dinh.

Nhiều người thân của TT Diệm cho rằng, đó là nỗi khổ tâm mà ông không thể nói ra và mỗi lần như vậy ông lại càng thêm bẳn gắt. Ví dụ: Một lần đám con bà Nhu lấy bút vẽ bậy bạ lên tường Dinh gần phía phòng Tổng Thống. Sĩ quan hầu cận đe nẹt thì đám trẻ lại nặng lời với họ rồi về mách mẹ. Bà Nhu bênh con lại nặng lời và đổi thừa cho đám cận vệ vẽ bậy. Lời qua tiếng lại bà Nhu lại vào thưa kiện với Tổng Thống vì viên sĩ quan dám hỗn xược với bà. Ông Tổng Thống lại mất công phân xử. Thường Thường bao giờ ông cũng chỉ đỏ mặt, yên lặng, quay đi và lắng nghe cả hai bên trình bày, ông không nói một câu… Nếu cùng lắm thì chỉ phán quyết: “Thôi bỏ qua”.

Một lần khác, vào đầu năm 58 khi chế độ Ngô Đình Diệm đang vào thời kỳ cực thịnh, một buổi tối bà Nhu bận đồ ngủ, mặc áo choàng vào phòng ông TT để kiện cáo một vài chuyện lặt vặt, ông già Ẩn khép cửa đi ra….Bỗng ông TT quát tháo rầm rĩ, bấm chuông gọi ông Ẩn và ông Bằng mắng vu vơ trước mặt bà Nhu. Từ buổi đó, biết ý ông TT nên mỗi lần bà Nhu vào phòng Tổng Thống thì ông Ẩn hay ông Bằng phải có mặt hoặc Sĩ quan tùy viên. Nếu không thì y như là có sự la lối. Thường thường nói chuyện với bà Nhu hay bất kỳ một người đàn bà nào khác, mặt ông Diệm đỏ gay, mắt nhìn đi chỗ khác và lời cắt quãng, nhát gừng.

Mỗi lần bà Nhu vào kiện cáo chuyện gì, ông yên lặng lắng nghe. Khi bà đi ra, ông lại lẩm bẩm nói nhát gừng: “Chuyện đàn bà con nít như rứa… thôi bỏ qua “

Một lần khác bà Nhu vào kiện cáo chuyện gia đình dòng họ, TT Diệm vẫn yên lặng lắng nghe rồi nói: “Thím cứ về đi rồi tui tính cho” – Bà Nhu không chịu lại la lớn tiếng. Bất thần ông Tổng Thống cầm chiếc gạt tàn thuốc lá ném về phía em dâu. Có lẽ ông ném hờ vậy thôi.

Chiếc gạt tàn văng vào tường vỡ tung. Bà Nhu mở của chuồn lẹ.

Những người thân cận chung quanh Tổng Thống Diệm đa số đều phục vụ ông từ nhiều năm trước thời kỳ 1945. Riêng sĩ quan tùy viên thì do Nha Nhân Viên Bộ QP tuyển chọn và đề bạt. Trước năm 1960, mỗi tùy viên phục vụ thời gian 2 năm. Nhưng sau, thời hạn bất kể. Thông lệ mỗi năm ông ra lệnh cho gọi tất cả các sĩ quan tùy viên cũ trở về Dinh gặp ông và cho mỗi người một số tiền 2000$.

Đối với TT Diệm đã là quá to. Rút tiền mặt chi cho ai đồng nào, ông thường đếm đi đếm lại rất cẩn thận.

Ngoài chữ Lễ theo quan niệm Nho Gia “Lễ vi tiên” ông còn luôn luôn nhắc nhở mọi người cẩn thận về chữ Nghĩa theo tiêu chuẩn “Nghĩa vi bản mạt” (Nghĩa là gốc ngọn). Thí dụ: Anh chàng Nậy trước kia kéo xe cho ông Huyện Diệm khi còn trọng nhậm ở Huyện Hải Lăng Quảng Trị. Lên làm Thủ Tướng, ông đánh điện cho Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng chỉ thị phải tìm Nậy và đưa vào Saigon. Nậy vào Saigon và được tuyển dụng vào Dinh Độc Lập làm nghề thợ mộc để có lương nhà nước dù lúc đầu Nậy không biết gì về nghề mộc. Rồi từ viên Thừa phái Hải Lăng, đến viên đội khố xanh ở Bình Định hay Chánh Tổng ở Hòa Đa…tức là những thuộc viên cũ, ông Tổng Thống đều gọi vào Dinh cho tiền làm vốn liếng (năm ngàn là tối đa) rồi cho một việc làm trong Dinh. Có một viên Đội Khố Xanh trước gác ở Dinh quan tuần Phan Thiết rồi lại ra Bình Định. Sau này nhờ Tây lên được hàng Úy, kịp đến khi ông Diệm về nước rồi tình cờ gặp được ông Diệm được ông lưu ý nâng đỡ mà leo lên mãi đến hàng tá cao cấp” sau này góp công không nhỏ trong việc “Làm thế nào để giết được một Tổng Thống”.

Một thí dụ khác về cái nghĩa của ông, vào tháng 1 năm 1962 trước vụ ném bom Dinh Độc Lập vào khoảng 1 tháng, BS Tuyến có một người quen bị công an bắt giam.

Người quen ấy là ông Nguyễn Văn Lực, một đảng viên VNQDĐ. Lúc ấy nội bộ của chế độ Ngô Đình Diệm đang bắt đầu phân hóa và đầy dẫy ngộ nhận và mặc cảm lẫn nhau cho nên BS Tuyến không thể đơn phương can thiệp cho Nguyễn Văn Lực được trả tự do. Song lại có cụ Nguyễn Xuân Tiếu, lãnh tụ Đại Việt cũng bị công an bắt giam.

BS Tuyến định tâm tìm cách nào tốt nhất để nói trực tiếp với Tổng Thống vì biết rằng cụ Nguyễn Xuân Tiếu trong quá khứ có rất nhiều liên hệ với TT Diệm. Một hôm vào phòng Tổng Thống để trình công việc, Ông Diệm hỏi: “Tình hình đảng phái chính trị dạo này ra sao?” Đương sự đáp: “Cũng không có gì cả, bình thường. Thưa cụ, thì mấy ông đảng phái nhàn rỗi không có việc làm thì cũng họp hành, tuyên bố lăng nhăng thế thôi”. Ông Tổng Thống ờ ờ, hút thuốc, tỏ ý khoan khoái. Đương sự tấn công tình cảm ngay: “Thưa Cụ, có ông Nguyễn Xuân Tiếu bị công an bắt giữ“. Ông Tổng Thống: “Nguyễn Xuân Tiếu tôi biết, hắn làm sao mà bị bắt hè“. Đương sự tìm lời nói khéo “Ông cụ ấy có tật hay uống rượu, uống rượu vào rồi thì cũng nói lăng xăng chống đối. Con thấy cũng không có gì nguy hiểm“.

Ông Tổng Thống vui vẻ gật đầu “Biểu Nguyễn Văn Là nó thả ông ta ngay- Biểu Tổng Thống chỉ thị”.

Ông Tổng Thống trầm ngâm “Năm 45, tôi bị Việt Minh nó bắt giam ở Thái Nguyên, Nguyễn Xuân Tiếu đối với tôi tốt lắm  Hắn tiếp tế đồ ăn cho tôi hằng ngày, tiếp cả thuốc lá.

Sau hắn còn đưa cả tiền cho tôi để có chút ít chi phí về Hà Nội rồi vào Nam”. Ông Tổng Thống không quên nhắc nhở đương sự: “Khi nào gặp hắn bảo hắn lúc nào rảnh rỗi vào đây chơi”.

Nhờ có cụ Nguyễn Xuân Tiếu nên nhân chứng xin cho cả ông Nguyễn Văn Lực được trả tự do. Nhưng hơn 20 ngày sau khi con trai ông Lực là phi công Nguyễn Văn Cử cùng phi công Phạm Phú Quốc oanh tạc Dinh Độc Lập, ông Lực nhanh chân trốn thoát.

Sự việc này đã làm cho BS Tuyết bắt đầu bị thất sủng vì có sự nghi ngờ. Ngay sau khi im tiếng súng đương sự vào thăm Tổng Thống thì ông rất lạnh lùng hỏi: “Vụ này nghe như ông biết trước rồi phải không?” Đương sự lạnh cả người. Tuy vậy, theo đương sự, ít ngày sau, ông Tổng Thống cũng bỏ qua không nhắc tới nữa. Trong mấy anh em, thì TT Diệm được coi là người tuy nóng tánh bất thường nhưng đã dùng ai thì không muốn thay đổi. TT Diệm tuy có trí nhớ rất tốt nhưng ông cũng hay quên… Khi nổi nóng ông la mắng nhưng sau đó quên ngay. Việc dùng người cũng vậy, nhiều chiến hữu rất thân cận với ông, nếu giữ khí tiết không tìm cách cầu cạnh để đề bạt, Ông Tổng Thống cũng quên luôn. Trường hợp Đô Trưởng Vũ Tiến Huân, lúc đầu ông cho “quyền Đô Trưởng” rồi sau không ai nhắc nhở nên cứ quyền Đô Trưởng cho đến ngày đảo chánh. Trường hợp Đỗ Mậu quyền Giám Đốc Nha ANQĐ cũng vậy.

Như tướng Trần Văn Đôn lúc đầu tuy bị ông Nhu không ưa vì cho rằng “Thứ dân Tây đi lính cho Tây chỉ biết ăn chơi thì làm được cái gì”. Nhiều lần ông Nhu có ý thay thế tướng Đôn ở chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I nhưng không dám công khai ngỏ ý vì biết có ngỏ ý TT Diệm cũng không chấp nhận. Một lần coi tấm hình tướng Đôn bận áo thụng xanh khăn đóng thù tiếp ông Cậu Cẩn và cùng vấn thuốc lá Cẩm Lệ hút như ông Cậu. TT Diệm có vẻ đắc ý, lại được một Sĩ quan thân cận phụ đề: “Mấy năm nay tướng Đôn chỉ lo làm việc, không còn ăn chơi nhảy nhót” TT Diệm xem ra “chịu” ông tướng vùng địa đầu. Nhiều báo cáo đến tay ông đều dẹp bỏ không xét. Riêng về việc phong tướng, ông Diệm tỏ ra thận trọng.

Dịp tăng thưởng 26-10-1962 cũng như năm 1963, có mấy Đại Tá được đề nghị lên tướng, ông Diệm đều không chấp thuận và nói: “Thằng ấy… thằng ấy lên Đại Tá là maximum”.

Có một ông Đại Tá thuộc “người trong nhà” tưởng là thế nào ông Cụ cũng cho đeo sao vì có công theo Cụ từ ngày còn đội khố xanh. Ông Tổng Thống gạt đi mà mắng rằng: “Từ nay, việc lên tướng dành cho bọn trẻ” Một số Sĩ Quan cấp tá trẻ được Ông Tổng Thống lưu ý đặc biệt ông vẫn thường gọi vào “xem tướng” rồi nói với mấy người thân cận “Mai này cho hắn lên tướng được đó. Bảo hắn ấy phải lo mà học hành lấy bằng cấp đi.” Ông Diệm vẫn phàn nàn với mấy người chung quanh: “Tướng của mình phải có chút bằng cấp học vấn thì người ngoại quốc người ta mới không khi rẻ. Tướng Mỹ, tướng Pháp họ học cao lắm”. Có hai điều nếu ai ngỏ ý xin, TT Diệm chấp thuận ngay: 1- Xin được đi học 2- Xin ra chỉ huy ở đơn vị tác chiến. Cũng vì có tư cách đàng hoàng và chịu cắp sách đến trường cầu học, Đại tá Cao Văn Viên đã được TT Diệm quí mến đặc biệt. Trung Tá Lữ Mộng Lan, khi còn làm trưởng phòng III Bộ Tổng Tham Mưu, ngỏ ý xin Tổng Thống cho ra chỉ huy đơn vị tác chiến. TT Diệm lưu tâm ngay và cho là ông Lan có ý cầu tiến, chịu xông pha. Khi thành lập SĐ 25 BB tại Quảng Ngãi, Trung Tá Lan được cử làm Tư Lệnh Sư Đoàn sau đeo lon Đại Tá giả định.

Về cách chọn người của TT Diệm thì khó ai có thể lường được trước. BS Tuyến xác nhận rằng: “80 % các Tỉnh Trưởng đều do ông Tổng Thống  chọn“. Khoảng năm 1958, Tỉnh Trưởng Kiến Hòa lúc bấy giờ là một Thiếu Tá người quen thân của Trung Tá Phạm Ngọc Thảo và cũng là chỗ quen thân của BS Tuyến. Một hôm, đương sự vào phòng Ông trình công việc, bất thần ông Tổng Thống nói: “Anh có biết Sĩ Quan nào quen việc hành chánh không chỉ cho 2 người”.

Tất nhiên là đương sự không dám hỏi thẳng Tổng Thống dùng 2 sĩ quan ấy vào việc gì. Đương sự đáp: “Thưa có, hiện nay ở sở của con có 2 sĩ quan con đang chờ lệnh bổ dụng mà con cũng chưa biết đặt ở đâu. Hai sĩ quan này đều đã làm Quận Trưởng bên Gia Định vừa mới bị thay thế”. Ông Tổng Thống gật đầu: “được rồi. Tên?” Hai sĩ quan này là Đại Úy lê Minh và Trung Uý Q rồi ông Diệm lấy giấy ghi tên hai người.

Theo thông lệ những việc nào có tính cách bí mật và để tránh sự nhòm ngó của người chung quanh ông Thổng Thống đều viết chữ Hán. Vì ông cho rằng, thời nay không mấy ai đọc được chữ Hán. Cũng như người Bồi phòng của TT Diệm vì lo công việc hàng ngày trong phòng riêng của Ông nên phải chọn một anh không biết chữ như bồi Bẩy Thạch.

Khoảng 3 ngày sau, ông Đổng lý Quách Tòng Đức báo cho BS Tuyến biết là hai sĩ quan kể trên đã có Nghị Định bổ nhậm Tỉnh Trưởng và Phó Tỉnh Trưởng Nội An Kiến Hòa. Đại Úy Lê Minh được cho lên Thiếu Úy giả định, Trung úy Q được lên Đại Úy giả định. Nhân BS Tuyến nghe tin này thì choáng váng cả người vì Thiếu Tá Thảo bị thay thế là chỗ thân của ông. Riêng Lê Minh lại không muốn đi làm Tỉnh Trưởng Kiến Hòa. Sau khi bị thay thế Quận Trưởng, Lê Minh đã chán hành chánh chỉ muốn có một chỗ tốt tại Saigon. Bỗng đâu chỉ vì một lời giới thiệu vu vơ, Lê Minh trở thành Tỉnh Trưởng rồi sau này lại bị ông Tổng Thống nổi giận cất chức Tỉnh Trưởng.

Trong 9 năm có rất nhiều trường hợp “trúng số độc đắc” như vậy. Một thí dụ khác vào khoảng năm 1962, lúc ấy Bộ Trưởng Tư Pháp là ông Nguyễn Văn Lượng. Theo Lương Khải Minh thì khi ông Bộ Trưởng Tư Pháp vào trình công việc của Bộ, rồi cũng bất thần bị ông Tổng Thống hỏi:”Bên Tư Pháp có ông Thẩm Phán nào biết việc hành chánh, quản trị nhân viên, ông Bộ Trưởng tìm cho tôi hai người“. Bộ Tư Pháp lúc ấy cũng có hai Thẩm Phán “ngồi chơi xơi nước” trong khi chờ lệnh bổ nhậm mới. Đó là ông Tòa Trần Thiện Đức, nguyên Biện Lý ở Tòa Sơ thẩm Mỹ Tho vì có sự bất hòa chống đối viên Tỉnh Trưởng địa phương nên tạm thời được rút về bộ. Còn ông Tòa Khánh thuộc Tòa Nha Trang vì vụ lỗi lầm gì đó nên bị thay thế và đang nằm đợi lệnh ở Tòa Thượng Thẩm Huế. Ông Tòa Trần Thiện Đức nổi tiếng về sự cương trực và có lòng tốt, dân Mỹ Tho rất quí trọng ông.

Bộ Trưởng Tư Pháp Nguyễn Văn Lượng đưa tên hai ông Tòa này trình lên TT Diệm. Ông Tổng Thống lại tự tay ghi chép. Ít lâu sau có Nghị định bổ nhậm ông Tòa Khánh làm đại biểu Chính Phủ tại Cao Nguyên Trung Phần, ông Tòa Trần Thiện Đức làm Tổng Đoàn Trưởng Công Dân Vụ mà cả hai đương sự không được thông báo trước.

Trước khi có Nghị Định bổ nhậm, họ nhận được lệnh vào trình diện TT Diệm cũng chỉ có mục đích để ông Tổng Thống xem tướng. Nhiều trường hợp chỉ vì “xấu tướng” đã không được ông Tổng Thống bổ nhậm.

Riêng ông Tòa Đức vì sự giới thiệu tình cờ của ông Bộ Trưởng Tư Pháp mà trở thành Tổng Đoàn Trưởng Công Dân Vụ. Sau đảo chánh 63 ông bị điều tra “lên xuống” xem có phải là Cần Lao không, có chạy tiền để được chức vụ ấy không.

Về vụ xem tướng người của TT Diệm cũng có nhiều cái rất lạ. Như ông X, TT Diệm lắc đầu: “mặt thịt, vai u nó làm được cái gì“. Như ông Y, TT Diệm thấy ăn mặc đàng hoàng, nói năng dõng dạc, đi đứng nghiêm trang, ông gật đầu: “thằng đó khá“. Anh nào nói không ra hơi ngôn bất xuất khẩu, ông lắc đầu ngay… Những anh nào ưa “nói leo” chưa hỏi đã nói cũng khó lòng lọt vào mắt xanh của ông. Điều tối kỵ với ông là anh nào có vợ hai, bị báo cáo là bài bạc nghiện hút. Ông ghê sợ sự nghiện hút và kẻ nào vợ nọ con kia. Thiếu Tá Trần Ngọc Châu được ông thương vì có tài nói và thuyết trình rất lưu loát. Tướng Đôn được TT Diệm sủng ái vì được coi là quân nhân có tác phong, đi đứng và chào kính nghiêm trang. Phó TT Thơ dù lùn và lé nhưng TT Diệm coi như em vì “Cụ Phó chịu làm việc. Cụ Bà hiền đức

LÀM LỚN

Dù thế nào thì TT Diệm cũng vẫn là một ông Quan trọng tinh thần “Phụ mẫu chi dân”, một ông Quan trong giấc mộng kinh bang tế thế và được thành lập bởi tinh thần Nho Gia “Dân chi sở ố, ố chi. Dân chi sở hiếu, hiếu chi” (dân ghét cái gì, mình ghét cái đó. Dân thích cái gì, mình thích cái đó. Sách Đại học). Sở dĩ phải dẫn sách Đại Học ở đây vì ông Tổng Thống thuộc nằm lòng sách này và thường đem từng câu ấy ra giảng dạy cho thuộc cấp. Khi trở thành Tổng Thống thì ông Quan ấy trở nên một vị Hoàng Đế với tiêu chuẩn “Thừa Thiên hành đạo“. Ông cai trị dân với một Thiên Mạng của nho gia. Cho nên ta thường thấy ông luôn nhắc đến chữ “Thành“. Chữ Thành lấy ở sách Trung Dung.. Một tướng lãnh hiện nay vẫn còn giữ bản thủ bút của ông do ông viết tay và cho đương sự làm món gia bảo gồm 6 chữ Hán, nét chữ rất đẹp:

Thành giả thiên chi đạo dã” (Thành là đạo của trời vậy). Trong tinh thần đó ông quả là một vị minh quân ở tiền bán thế kỷ 19. Nhưng giữa thế kỷ 20 và trong thực tại của miền Nam sau 1954, TT Diệm lại trở thành lạc lõng trong cơn giống tố của thời đại. Tuy tạo được uy quyền tối thượng, tuy giữ được thể thống quốc gia nhưng ông Tổng Thống lại trở thành pho tượng trong vườn ngự uyển. Trong khu vuờn đó, ông tưởng ai cũng nghĩ như ông, cũng làm như ông và sống như ông. Ông lại quá tin nơi mình với mặc cảm uy quyền và ông ghen với uy quyền đó (jalouse de son pouvoir).

Ông làm việc theo lề lối của một vị đường quan và quân thần chủ nghĩa. Vì vậy mà công việc được giải quyết theo khẩu lệnh và quần thần cứ y thế mà làm không mấy ai dám ho he phản đối. Theo nhân chứng Lương Khải Minh làm việc trực tiếp với TT Diệm và ông Nhu trong 9 năm thì có thể nói nếu so với Đức Cha Ngô Đình Thục hay ông Cẩn, TT Diệm và ông Nhu đều biết ai hèn hạ ai tâng bốc nhưng biết mà không nói, biết mà vẫn dùng. Sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn kể lại rằng: Có một lần vào năm 1962 ở Dinh Tổng Thống trên Đà Lạt, ông Tổng Thống cần đi gấp mà trong phòng lại không có đôi giày. Ông la bồi. Lúc ấy bồi lại đi đâu vắng. Sĩ quan tùy viên vẫn đứng yên vì lấy giầy cho Tổng Thống không phải là việc của anh (những việc này để bồi nó làm. Tổng Thống dặn như vậy).

Thấy Tổng Thống la bồi biểu đi tìm giầy, một ông Bộ Trưởng chạy đi tìm và mang giầy lại. Ông Tổng Thống mặt đỏ gay, nhăn nhó và gạt đi, nói một cách bực tức: “Hừ…hừ…để bồi nó làm“. Ông Bộ Trưởng tái mặt vì ngượng và sợ. Sĩ quan tùy viên nhìn mặt ông Bộ Trưởng mỉm cười. Nhiều ông lớn tỏ ra hèn hạ một cách công khai đã bị ông Tổng Thống mắng thẳng vào mặt. Riêng ông Nhu, một lần thấy một ông Đại Úy mặc quân phục đeo lon, đẩy xe cho ông Ngô Đình Luyện dạo quanh Dinh (vì ông Luyện đau chân nên phải ngồi xe có tay đẩy), ông Nhu cười “ruồi” chỉ cho một sĩ quan hầu cận của TT Diệm và nói thẳng: “thằng cha sao nó lố như rứa“.

Còn bao cảnh hèn hạ tuyệt vời khác như ông Đ. cúi đầu tháo giày cho ông Luyện, ông L kia dở chén măng cua ăn thừa của Đức Cha một cách hoan hỉ. Lỗi lầm tai hại nhất của chế độ Ngô Đình Diệm chính là ở điểm như vậy của cộng sự viên qua cái bản chất hèn hạ của con người họ. Mà những con người ấy lại tiêu biểu cho quốc gia ở một ngành này hay một địa phương khác. Trong khi đó, Cộng Sản luôn luôn tìm cách khai thác và tạo nên dư luận thành kiến để làm lớn chế độ rồi bôi đen chế độ qua những vết đen của từng cá nhân trong guồng máy chế độ.

Người ta thường cho rằng, trong 9 năm TT Diệm chỉ “làm vì” và ông Nhu bao thầu mọi việc. BS Tuyến cho rằng “như thế là sai sự thật” chế độ, Ông Nhu chỉ là một thứ bổ sung cần thiết cho TT Diệm. Kể từ năm 1962 và nhất là khi thành lập Ấp Chiến Lược  thì công việc mới bắt đầu dồn lại phía ông Nhu. Nó dồn lại một cách mặc nhiên và ông Nhu cũng mặc nhiên chấp nhận. Nhưng TT Diệm vẫn giữ quyền của ông mà không ai chia xẻ được kể cả ông Nhu. Nhiều sự bổ nhậm trong quân đội cũng như hành chánh khi đã có Nghị định, bấy giờ ông Nhu mới biết. Nếu muốn đặt để ai ở một chức vụ quan trọng, ông Nhu chỉ đánh tiếng bằng những lời khen: “ông ấy, ông ấy, có khả năng, có tài về lãnh vực ấy”. Khi chú Nhu đã nói như vậy thì ông Tổng Thống tin ngay và chắc chắn đương sự sẽ được bổ nhậm. Nếu ông Nhu nói: “Sừ A khá, cho hắn làm Tổng Giám Đốc” thì, theo BS Tuyến, chắc chắn ông A sẽ không bao giờ được bổ nhậm như ý ông Nhu muốn vì đã nhiều lần xảy ra như vậy.

Nhưng nếu mọi việc không có ý của chú Nhu thì ông Tổng Thống không yên tâm như việc thảo diễn văn chẳng hạn. Những năm đầu thì do ông Trần Chánh Thành viết, sau này do ông Lương Danh Môn (Tổng Thư Ký Bộ Quốc Phòng) hoặc khi nào rảnh thì do ông Võ Văn Hải. Ông Hải đảm trách phần vụ viết diễn văn bằng Anh ngữ. Nhưng ai viết cũng đều phải qua tay ông Nhu đọc lại. Diễn văn quan trọng thì tự tay ông Nhu viết. Dù ai viết và ông Nhu đã xem lại, ông Tổng Thống thế nào cũng đọc kỹ và sửa lại một vài chữ mới bằng lòng. Một lần theo lời viên Sĩ quan hầu cận (Đại Úy Bằng): “Ông Nhu đưa bài diễn văn qua phòng ông Tổng Thống, ông Tổng Thống dọc rồi lắc đầu quầy quậy”.

Bài ấy ông gạch một chữ rồi gọi chú Nhu qua, ông nói:”Sao lại tiến bộ” ông Nhu giải nghĩa bằng tiếng Pháp. Ông Tổng Thống lắc đầu: “Tiếng Pháp đâu có thâm thúy bằng tiếng ta”. Ông nói: “tiến bộ là sai, phải dùng chữ đồng tiến“. Rồi ông lại nói một mình: “Đồng tiến là mọi người cùng nhau tiến”. Từ đó, ông đắc ý với hai chữ “đồng tiến” nên mới đặt tên cho những khóa học như khóa Đồng Tiến rồi kinh Đồng Tiến và diễn văn luôn luôn có chữ đồng tiến.

Về diễn văn phải viết bằng tiếng Pháp thì do ông Nhu. Về Anh văn do ông Võ Văn Hải hoặc Trương Bửu Điện và sau này là Tôn Thất Thiện. Dù ông vẫn phục  ông Nhu về đề tài viết Pháp văn nhưng thế nào ông cũng đọc lại rồi dở từ điểm ra coi, cân nhắc một vài “termes” cho chỉnh. Về Anh văn cũng thế, mặc dầu TT Diệm không có sở trường về Anh văn.

Một lần viếng thăm một Quân Đoàn, ông tướng Tư Lệnh của Quân Đoàn này đọc mấy lời “kính dâng Ngô Tổng Thống”…Ông Diệm nhăn trán quắc mắt vì trong đó có chữ Hán dùng sai. Buổi tối, trở về phòng trong lúc nói chuyện vui, ông bảo viên Sĩ quan hầu cận: “Cái thằng nớ nó người Hoàng Tộc sao nó ngu như rứa. Nó học hành đến đâu hè, ông thân sinh của nó xưa nghe nói giỏi chữ Hán…” Rồi ông Tổng Thống nhớ mãi. Vào khoảng tháng 10-63, có sự đề nghị của ông tướng này tham chánh, ông Tổng Thống lại nhắc đến bài “kính dâng” xưa kia và nói giận dữ: “Chữ nó còn không thông thì nó biết cái mô tê chi”.

Dù ông Nhu là một cần thiết không thể thiếu song ông Nhu không dám qua mặt ông anh một cách công khai, nhất là về hành chánh. Ông Nhu vẫn thường phê bình ông anh: “Il peut administrer mais…Il ne peut gouverner“.

Như trên đã viết, ông Nhu là một thứ bổ sung cần thiết cho ông Tổng Thống. Trong bất cứ một vấn đề quan hệ nào nếu không có ý kiến của ông em thì ông anh không yên tâm.

Nhưng thế giới của ông anh là riêng của ông anh, ông em không thể nào “xía” vô. Hai thế giới cách xa nhau, màu sắc và bản chất cũng khác nhau. Căn phòng làm việc của ông anh Tổng Thống thì hoàn toàn vô trật tự, giấy tờ, hồ sơ ông để lung tung. Ông làm việc không theo giờ ấn định, không có lịch trình. Theo Đại tá Đỗ Mậu, khi vào trình Tổng Thống về việc A…nhưng chỉ ít phút sau ông hỏi qua việc B rồi lan man qua phạm vi tử vi tướng số. Ông thích hàn huyên tâm sự, thích nói chuyện đời xưa…Trái lại, văn phòng làm việc của ông Nhu rất trật tự. Hằng ngày ông làm việc theo giờ giấc và đúng lịch trình. Ông làm việc tại văn phòng phía sau bàn giấy là tủ sách. Hồ sơ để theo thứ tự và sắp xếp từng loại. Sự ngăn nắp này cũng dễ hiểu vì ông là Tổng quản Thư Viện và Văn Khố…. Nhưng TT Diệm gặp đâu làm đó lại luôn luôn giải quyết công việc bằng khẩu lệnh. Theo Lương Khải Minh người ta thường cho rằng ông Nhu nói gì ông Tổng Thống nghe nấy, điều đó không đúng…Ông Tổng Thống chỉ nghe ông Nhu về những vấn đề quan trọng thuộc lãnh vực chính trị và chiến lược. Ngoài ra, những vấn đề khác nhất là những vấn đề thuộc lãnh vực hành chánh và Dinh Điền, ông Nhu đôi khi phải nhờ Đệ Tam Nhân can thiệp với ông Tổng Thống. Đệ tam nhân đó có thể là ông Nguyễn Đình Thuần, vừa là người của ông Tổng Thống vừa là người được lòng ông Nhu. Trường hợp bổ nhậm Nguyễn Xuân Khương là điển hình tuy ông được BS Tuyến giới thiệu với ông Nhu khi ông Nhu muốn kiếm một người làm Tổng Giám Đốc điền địa có khả năng chuyên môn để phụ giúp ông Bộ Trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa.

Trong giới kỹ thuật, Lương Khải Minh thấy ông Khương là kỹ sư chuyên viên về địa chánh, ăn nói lại lưu loát. Nhờ đó ông Khương được cân nhắc. Vì đang chú trọng đến công tác chỉnh trang lãnh thổ nên Nguyễn Xuân Khương luôn luôn có dịp ở bên Tổng Thống. Ông Tổng Thống lại là người thích xem họa đồ, nói chuyện đất đai lãnh thổ, ông Khương là người lanh chân lẹ miệng được lòng Tổng Thống. Từ khi địa vị đã vững vàng, theo sát chân Tổng Thống, ông Khương lờ luôn cả ông Nhu, mọi việc nhất nhất ông Khương đều trình thẳng lên Tổng Thống. Bởi vì nếu đã được lòng ông Tổng Thống dầu rằng ông Nhu có ghét cũng không sao.

Tháng 6-63 Nguyễn Xuân Khương được cử thay Hồ Đắc Khương làm Đại Biểu Chánh Phủ tại Cao Nguyên Trung Phần. Ông nhu chỉ được biết ông Tổng Thống đã quyết định bổ nhậm ông Khương. Ông Nhu đành bóp đầu bóp trán: “Hắn thì biết gì về chính trị mà cử ra đó”, nhưng ông anh đã quyết định thì ông em cũng đành phải theo rồi tìm đệ tam nhân “nắm” Nguyễn Xuân Khương.

Thế nhưng, có hai người vẫn làm việc song song, đối đầu nhau. Có những việc mật, chỉ ông Hải biết mà ông Nhu không biết, cho dù không ưa ông Hải, ông Nhu cũng chả làm gì được hơn. Trong gia đình đó kẻ làm em phải chịu lép vế. Theo Lương Khải Minh nhiều vấn đề ông Nhu rất không đồng ý với ông anh và nhiều lần công kích nhưng khi gặp TT Diệm thì ông Nhu lại ngồi lặng thinh không dám nói. Cũng như ông Cẩn ở miền Trung, ông không ưa gì bà Nhu, thường nặng lời công kích, mạt sát nhưng khi gặp ông Nhu và bà chị dâu thì ông Cẩn lại lặng thinh.

Tuy ở cùng trong Dinh sống chết có nhau trong 9 năm, ông Nhu rất ngại gặp Tổng Thống. Theo Sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn từ khi anh vào Dinh làm việc, dạo năm 1958 đến năm 1963, anh chỉ đến chào ông Nhu lần thứ nhất khi nhận việc theo sự chỉ dẫn của Tham Mưu Biệt Bộ.

Lần ấy gặp ông Nhu, ông nhìn anh mỉm cười, nói mấy câu ngắn ngủi “Cảm ơn, ở đây mà làm việc”. Ông Nhu hầu như không để ý đến thế giới của ông anh kể cả cộng sự viên thân tín của ông anh.

Trường hợp Lê Công Hoàn được gọi về Dinh cũng đầu bất ngờ như bao trường hợp khác. Anh đang phục vụ trong ngành Công Binh tại Pleiku thì có công điện gọi về trình diện tướng Đính tại ban Mê Thuột, gặp tướng Đính, ông cho biết: “Anh về Saigon trình diện Tổng Thống”. Rồi ngay đêm đó, ông Đính cho một chiếc xe jeep thật tốt, có người hộ tống, đi suốt đêm từ Ban Mê Thuột về Sài Gòn. Lê Công Hoàn rất hồi hộp không biết số phận hên xui ra sao. Sáng hôm sau, dù qua một đêm hành trình mệt mỏi, ông Hoàn cũng phải quần áo chỉnh tề ngay ngắn… Nhưng gặp ai và ai đưa vào trình diện Tổng Thống? Lúc ấy Lê Công Hoàn còn là Trung úy. Ông đến trình diện Bộ Tổng Tham Mưu. Ở đây, lắc đầu không biết. Ông đến Bộ Quốc phòng, Ở đây bảo qua Lữ Đoàn  LĐPV cũng không biết và bảo qua Tham Mưu Biệt Bộ gặp Trung Tá Cao Văn Viên. Bấy giờ mới tìm đúng chỗ. Sau đó, ông được Trung Tá Viên đưa vào trình diện Tổng Thống Diệm. Trước hết, ông Tổng Thống lừ mắt nhìn Hoàn từ đầu đến chân, ông nhìn thật lâu có lẽ để xem tướng Hoàn. Dùng người ông Tổng thống có thói quen bắt tướng. – Một lát ông gật đầu, hỏi qua Hoàn về gia đình. Ông hỏi Hoàn “Đeo kiếng cận như vậy có bắn được không?” Lê Công Hoàn đáp: “Dạ thưa gần thì con bắn được” – Ông Tổng Thống hỏi: “Trúng không?” LCH thưa: “Dạ bắn được thôi. Con không dám nói là trúng”, ông Tổng Thống gật đầu cười.

Năm năm sống cạnh Tổng Thống Diệm, Sĩ quan tùy viên lê Công Hoàn cho biết rằng: Ông cũng chẳng có quan niệm nào về đảng Cần Lao. Đã được TT tín nhiệm thương yêu thì khỏi cần đảng phái.

Mà ông Tổng Thống rất ít nhắc đến Đảng. Việc đảng phái có chú Nhu lo. Người không hề tham gia đảng phái chính trị như Đại tướng Lê Văn Tỵ rất được ông Tổng Thống tín nhiệm thương yêu trong sự tương kính. Dù có chân trong Đảng hay được ông Nhu hay ông Cẩn tín nhiệm, nhưng ông Tổng Thống không ưa thì đương sự cũng khó ngóc đầu lên được…

Ông Nhu làm việc và tiếp khách đều theo lịch trình đã định sẵn. Kể cả lúc đi săn cũng thể theo chương trình. Một vài năm lại về Huế nghỉ 10 ngày bế quan tỏa cảng và đọc sách. Đọc sách cũng có chương trình. Bằng ấy ngày nghỉ sẽ đọc bằng ấy quyển. Mỗi lần đều có sổ tay ghi chép. Ông Tổng Thống thì không. Sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn cho biết: Mỗi lần ông Tổng Thống đi kinh lý ở đâu, văn phòng đều có định trước chương trình. Ví dụ ông lên Đà Lạt thì 9 giờ viếng Trường Võ Bị, 11 giờ đi thăm Ấp Chiến lược… Rồi sẽ tiếp những ai. Tùy viên phải học thuộc lòng. Tổng Thống hỏi phải nói ngay không bao giờ được đưa giấy ra coi. Tuy nhiên chẳng bao giờ ông Tổng Thống theo chương trình ngoại trừ trường hợp có các ông Đại Sứ tháp tùng.

Việc tiếp khách cũng thế, theo nguyên tắc Tham Mưu Biệt Bộ sắp đặt để Tổng Thống tiếp ai, giờ nào ngày nào. Nguyên tắc ấy thực tế không được tôn trọng. Chức việc văn võ đến ngồi chờ trong phòng khách rồi tùy theo chức vụ cấp bậc và công việc gấp hay không gấp , Sĩ quan tùy viên sẽ mời từng người vào “hầu” Cụ. Lúc ấy ông Sĩ quan tùy viên trở nên quan trọng có thể nói, tùy viên “khoái ai” thì đưa người đó vào trước… Không có cảm tình với ai, dù ở cấp bậc cao, tùy viên vẫn có thể cho ngồi chờ 2, 3 giờ. Có người Tổng Thống tiếp năm ba phút, có người được tiếp hằng 2, 3 giờ. Phía tướng lãnh người tâm đầu ý hợp với TT Diệm là Đại Tướng Tỵ. Mỗi lần Đại Tướng Tỵ vào Dinh gặp TT sẽ lâu hằng một hai giờ. Mọi người đều các nhận tướng Tỵ không có tài thao lược nhưng lại tốt bụng , tướng Tỵ không khúm núm không quỵ lụy, tướng Tỵ đề cử ai thì xem như ăn chắc 100%. Chính tướng Tỵ đã đích thân tuyển chọn Trung Tá Sang lái máy bay riêng cho TT Diệm. Về nội bộ Quân Đội, tướng Tỵ nói điều gì, ông Tổng Thống tin điều đó. Tuy nhiên tướng Tỵ đối với tướng tá khác đều coi là đàn em nên ông không dèm pha ai. Về việc tưởng thưởng Bảo Quốc huân chương, ông Tổng Thống coi thứ Huân chương này như nấc thanh giá trị cao nhất, tiêu biểu cho sự nghiệp và chiến công của người được thụ lãnh. Nhưng tướng Tỵ đề nghị cho ai thì người đó được liền. Ngoài tướng Tỵ ra, khó lòng ai có thể đề bạt cho người này được thưởng Bảo Quốc Huân Chương. Thí dụ trường hợp Trung Tá Khôi khi được cử đi làm tùy viên QS tại một quốc gia bạn. Ông Khôi là một Sĩ quan tham mưu nên huy chương không có nhiều. Ra ngoại quốc làm Sĩ quan tùy viên như vậy thì hơi kỳ, nên có người vận động Tổng Thống cho ông Khôi được Bảo Quốc Huân Chương.

Dù là người cận thân tín xin cho ông Khôi song ông Tổng Thống vẫn gạt đi. Cuối cùng ông Khôi nghe lời bạn cứ ra tiệm mua đại một cái Bảo Quốc huân Chương đeo vào ngực cho có thể thống.

Ông Nhu thì coi thường giai cấp quan lại cũ. Song ông Tổng Thống vẫn hoài nhớ dĩ vãng xa xưa cho nên ông mới tái lập Kim Khánh Bội Tinh. Lập lại cả chức vụ Chánh Phó Tổng tại địa phương. Ông lại hay quan niệm gọi cấp bậc của thuộc viên từ thời Pháp. Chẳng hạn ông Tá X. ông Tổng Thống lại thường nói: “À ông Đội phẩm” (ông này vốn quen thuộc hàng xuất đội). Ông Y, ông Tổng Thống quen biết từ xưa nên lại thường gọi: “À ông Huyện…”

Không phải cứ quen thân ông bà Nhu là được Tổng Thống Diệm tín nhiệm, nhiều khi lại ở thế kẹt cứng…Tổng thống Diệm nóng tính nhưng cả nể.

Cũng vì sự cả nể nên bao nhiêu tai tiếng về Trần Văn Khiêm đến tai ông, ông đều bỏ qua chỉ vì Khiêm là em ruột bà Nhu (sau đảo chánh 63 anh ta bị khép tội mật vụ)

Lương Khải Minh xác nhận, anh ta chả có chức vụ gì cả, không một ai giao cho anh ta công tác gì. Nhưng dựa vào thế của chị, anh này ra ngoài lộng hành nhân danh người này người kia. Khi vào Dinh thì chạy lăng xăng. Nể bà Nhu nên không ai để ý. Có mấy khi anh chàng này được gặp Tổng Thống Diệm đâu. Có một lần Sĩ quan Lê Công Hoàn ghi nhận: Hôm ấy Khiêm được TT Diệm cho gọi vào. Anh tưởng ông Cụ ban phát chức vụ bổng lộc, nên mặt mũi quan trọng, hất hàm bảo Đại úy lê Công Hoàn “Nè ông Đại Úy, ông đưa tôi vào gặp Cụ”, ông Hoàn đáp nhã nhặn: “Thưa ông, Cụ đang bận, xin ông chờ”. Nhưng Khiêm ra vẻ quan trọng: “Tôi cần vào gặp Cụ ngay” Nói xong Khiêm kéo tay nhìn đồng hồ rồi tiếp: “10 giờ tôi có hẹn gấp. Tôi không thể chờ lâu được lâu” , ông Hoàn đáp thủng thẳng: “Được, xin ông cứ chờ”. Đáng lý Lê Công Hoàn đưa Khiêm vào gặp TT Diệm ngay sau đó nhưng “trả thù” cho bõ ghét. Ông Hoàn cứ để cho Khiêm ngồi chờ đến 11 giờ  mới dẫn vào yết kiến TT Diệm. Sĩ quan tùy viên vừa khép cửa đã nghe tiếng Ông Thổng Thống la mắng quát tháo Khiêm thật dữ dội. Một lát sau Khiêm đi ra mặt tái xám, tiu nghỉu, cắm đầu rảo bước.

Ông Khiêm không có một chức vụ, một vai trò nào, ấy vậy mà ở ngoài nghe thấy Khiêm ai cũng ngán. Khiêm chỉ là thứ cáo mượn oai hùm. Dưới chế độ Ngô Đình Diệm không thiếu chi những loại cáo mượn oai hùm như Khiêm.

Nhưng bọn họ lại có khả năng tạo nên sự nghẹt thở trong các khối quần chúng, reo rắc thêm hoang mang trong dân gian đi đến đâu chúng cũng nhân danh ông này ông nọ để lấy le cũng có để lường gạt cũng có.

Bất cứ một chế độ nào muốn vững vàng tại miền Nam, muốn cho dân chúng thương yêu tín nhiệm thì phải sáng suốt trừ ngay những thành phần cáo mượn oai hùm, nhất là những con cáo đó lại là bà con anh em của người cầm quyền thì sự tác hại của nó đối với chế độ không phải là nhỏ.

Gần những năm cuối cùng của chế độ, gia đình TT Diệm cũng bắt đầu phân hóa và mâu thuẫn lớn dần trong mấy anh em TT Diệm. Ông Nhu càng ít gặp ông anh Tổng Thống. Nhiều việc ông anh tự quyết định mà không cần hỏi chú Nhu.

Ngoài Trung, ông Cẩn bắt đầu uống rượu. Trước kia ông Cẩn chỉ nhấm nháp chút đỉnh rượu lễ. Từ năm 61, 62, ông đã uống cả ly lớn. Mỗi lần say ngất ngư, ông lại thét chửi mắng. Ông Nhu càng thêm say mê săn bắn. Đại úy Hạp, tùy viên của ông Nhu cho biết rằng, có khi ông nhu nằm dưới hầm săn cọp hai đêm liền. Có khi phải theo ông đi bộ cả ngày trong rừng già Phan Rang. Đó cũng là dấu hiệu báo trước sự thay đổi lớn trong nội tâm của những trụ cột chế độ đang ở giai đoạn suy tàn.

Trong năm 63, giới thân cận ông Cẩn cho biết: Ông Cẩn ức mà thổ huyết ít nhất cũng 3 lần.

Những lần ông ngồi ăn cơm với các anh, không biết anh em “xào nấu” nhau ra sao (người ngoài không thể biết được) ông Cẩn mặt đỏ gay rồi ông thổ huyết ngay trong bữa ăn (nói nôm na tức giận mà hộc máu).

Ông Nhu cũng như TT Diệm bắt đầu bị ám ảnh nặng nề bởi tổ chức CIA. Ông Nhu vẫn cho rằng CIA thuộc loại “insociable”…”thứ đó hết xài nổi”. Dạo ấy muốn dèm pha ai, hại ai chỉ cần báo với ông Nhu người ấy hoạt động cho CIA, đương sự kể như tan tành công danh chức nghiệp.

Thế giới của anh em ông Diệm bắt đầu xa cách nhau. Xin đưa ra một thí dụ đã nói lên sự xa cách đó. Tháng 10-1963, TT Diệm với sự góp ý của ông Nhu đã ra lệnh giải tan ngay văn phòng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung của ông Cẩn, ông TT cho rằng mọi công việc đều do tòa Đại Biểu Chính Phủ giải quyết… Đại Úy Nguyễn Văn Minh rời khỏi chức vụ Chánh Văn phòng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung qua sự giới thiệu của cha Bửu Đồng (khi ông Minh còn đóng ở đồn Cửa Tùng) đã trở thành người cán bộ cốt cán của ông Cẩn từ tháng 5-54. Trong 9 năm sống bên cạnh ông Cẩn, hầu hết trong gia đình họ Ngô từ ông Tổng Thống đến Đức Cha không còn xa lạ gì Đại Úy Minh… Ông Minh trở thành người trong gia đình và rất được tin cẩn.

Tháng 10-63, bỗng dưng Đại Úy Minh bị gọi vào Saigon qua thủ tục hành chánh. Một thủ tục chưa bao giờ áp dụng cho những người trong nhà như ông Minh. Bộ Nội Vụ theo lệnh Tổng Thống đánh công điện cho Tòa Đại Biểu chỉ thị cho ông Minh vào trình diện Tổng Thống. Ông Cẩn không được hỏi ý kiến. Điều ấy làm cho ông tức giận không ít.

Khi vào gặp TT Diệm, ông Tổng Thống vẫn vui vẻ hỏi: “Tôi nghe ở ngoài đó anh liên lạc với Mỹ nhiều lần lắm hỉ?” Đại Úy Minh trình bày sự liên lạc của ông với lãnh sự và Phó Lãnh sự Mỹ tại Huế. Đại cương ông Minh nói: “Con có gặp gỡ họ luôn. Đây là theo chỉ thị ông Cậu. Ông Cậu bảo con nên tìm cách tiếp xúc với Mỹ và tìm hiểu xem thái độ của họ ra sao” – TT Diệm gật đầu, không nói gì. Khi Đại Úy Minh trở lại Huế vào gặp ông Cẩn và đưa ông xem sự vụ lệnh thuyên chuyển ông Minh lên trường Võ bị Đà Lạt thì vẻ mặt ông Cẩn lúc ấy đăm chiêu và lộ vẻ buồn rất sâu đậm. Ông Cẩn bảo Đại úy Minh: “Thôi thì anh cứ đi. Ông Cụ làm thế này là ông Cụ đập vào mặt tôi” Hôm ấy là ngày 28-10-63. Đại Úy Minh sau 9 năm phục vụ bên cạnh ông Cẩn phải thu xếp hành trang rời bỏ Cố đô Huế. Có điều đáng ghi: Đại Úy Minh sinh trưởng ở miền Bắc khi trở thành Chánh Văn Phòng của ông Cẩn mới trên 26 tuổi… Một số người vẫn cho rằng ông Cẩn không ưa người miền Bắc như trường hợp Đại úy Minh cũng như nhiều cộng sự viên thân cận của ông Cẩn gốc miền Bắc đã đủ nói lên đây chỉ là “dư luận” có nhẽ dư luận ấy xuất phát từ ngôn ngữ hay có thói quen la hét: “Mẹ cha cái thằng Bắc kỳ”.

Đại cương, sự xa cách trong gia đình họ Ngô là như vậy. Chỉ có thể nói là xa cách còn có sự bất hòa không mấy ai biết được ngoại trừ người thân thiết của ba anh em ông.

Ông Tổng Thống nóng nẩy, chửi ai thì chửi thẳng vào mặt. Ông Nhu không ưa ai nhưng vẫn cười nửa miệng, lạnh lùng khó hiểu. Ông Cẩn hay quát tháo, xử dụng ngôn ngữ bình dân với thái độ hách dịch kiểu Tổng lý thời xưa.

UY QUYỀN

Đáng lý ra, những tiểu tiết thuộc vấn đề nhân sự không nên trình bày ở thiên bút ký này. Song có một điều giản dị: chính những tiểu tiết vụn vặt nhiều khi lại làm hỏng đại sự. TT Diệm có cái uy của người lãnh đạo tối thiểu nhưng ông lại luôn luôn bị chi phối ràng buộc bởi những chi tiết vụn vặt do cá tính của ông cũng như sự dị biệt trong cá tính của anh em ông.

Về ông Ngô Đình Nhu, ai cũng phải nhận rằng, ông giỏi, thông minh, am tường và thông suốt nhiều vấn đề. Nhưng ông kiêu ngạo quá, tính tình lại lạnh lùng khép kín.

TT Diệm là một người nhiều tình cảm, tốt bụng nhưng chữ Lễ, chữ Nghĩa theo tiết độ của nho gia đã trở thành cái khung chắc nịch nhốt ông vào trong đó. Do đó mà cái tôi tình cảm (le moi sensible) của ông không thể hiện được ra ngoài để thâu phục nhân tâm và hỗ trợ cho cái uy sẵn có của ông. Sau năm 1963, phải nhìn nhận rằng, trong hàng lãnh đạo quốc gia tại miền Nam, chưa một nhà lãnh đạo nào chứng tỏ có cái uy như ông. Đó là ưu điểm và là điều cần thiết số một của một ông Quốc Trưởng. Nhất là Quốc Trưởng môt nước chậm tiến. Không có uy thì quốc gia còn gì phép tắc, thể thống và uy quyền.

Những người thân cận đều xác nhận rằng: phải sống lâu với ông Tổng Thống mới nhận ra con người thực của ông. Con người ấy lại luôn luôn bị tình cảm chi phối. Ông cả nể và cả nghe. Năm 1959 là năm ông đang say mê với công cuộc khẩn hoang và phát triển đồn điền. Cho nên nếu ai khéo nói, khéo trình bày hợp lý, ông Tổng Thống đều chấp thuận cho khai thác rừng để lập đồn điền. Ông tướng Xuân là một trong những người được ông cho phép khẩn hoang hàng trăm mẫu rừng tại Phước Long để trồng cao su. Có một báo cáo mật của địa phương cho rằng, ông tướng Xuân chỉ giả vờ lấy cớ trồng cao su mà thực ra là để phá rừng lấy gỗ bán. Sau đó, ông Tổng Thống có xem xét lại rồi gạt bản báo cáo đi, mắng một ông Bộ Trưởng: “Bậy bạ, Người ta làm cho Quốc Gia mà mình cứ phá”. Ông Tổng Thống tin mọi người cũng ngay thẳng như ông… Nên đã bao nhiêu giấy phép cho cúp rừng để lập đồn điền khai hoang nhưng “Đồn Điền” chỉ là cái cớ để lòe ông Tổng Thống ký thế mà ông vẫn tin.

ĐỊNH MỆNH AN BÀI

Khoảng năm 56-60 có tin đồn Đại Tướng Thái Quang Hoàng sẽ thay Đại Tướng Tỵ. Cũng như năm 1961, có tin tướng Khánh sẽ thay tướng Tỵ. Theo Lương Khải Minh, Đại tướng Tỵ mới là cánh tay mặt của TT Diệm. Nếu tướng Tỵ không đi Mỹ chữa bệnh thì chẳng bao giờ tướng Đôn trở thành Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, như lịch sử đã an bài, không ai lúc đó có thể ngờ rằng sự thay đổi chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng lại trở thành một trong những yếu tố làm chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ.

TT Diệm được một bác sĩ Mỹ cho biết: Bệnh ung thư phổi của tướng Tỵ không thể nào chữa khỏi và chỉ còn chờ ngày chết. Những người thân xin để Đại Tướng Tỵ qua Pháp điều trị, ông Tổng Thống gạt đi và quyết định đưa Đại Tướng qua Mỹ. Từ bao lâu rồi, ông Tổng Thống yên trí chỉ có Mỹ mới giỏi về khoa học, ông Tổng Thống muốn tự tay ông lo cho Đại Tướng Tỵ.

Trước ngày Đại Tướng sang Mỹ chữa bệnh, ông có đến cáo biệt TT Diệm. Hai người tâm sự một lúc lâu. Ông Tổng Thống hỏi: “Bà thân mẫu của Đại Tướng còn không?” Rồi ông Tổng Thống tâm tình: “Tôi thì thân mẫu còn sống, thân mẫu tôi đã già rồi tôi cũng phải cố giữ gìn thân thể để còn trả chữ hiếu cho mẹ”

- Tổng Thống Diệm quí mến tướng Tỵ trước hết vì tướng Tỵ thật thà lại hay hàn huyên tâm sự với ông Tổng Thống. Tướng Tỵ có thể tiếp chuyện với ông Tổng Thống lâu cả một, hai giờ không phải là vì chuyện quốc sự hay quân cơ mà thường là chuyện tình cảm. Tướng Tỵ là một trong mấy tướng chỉ xưng “tôi” mà không dùng tiếng “con” đối với ông Tổng Thống. Đại khái tướng Tỵ thường nói: “Thưa Tổng Thống tôi… tôi xin trình Tổng Thống….Tôi xin thưa Tổng Thống”. Tướng Tỵ ăn mặc rất chỉnh tề đúng phong cách quân kỷ. Mỗi lần vào phòng Tổng Thống, tướng Tỵ đều chào kính theo đúng quân cách, đó là điều ông Tổng Thống rất thích. Một ưu điểm khác nữa là tướng Tỵ không “xin xỏ” lôi thôi… không kéo phe kết đảng…Ông nói năng dõng dạc, nhưng khi tâm tình với Tổng Thống lại rí rỏm, tỏ ra tương đắc.

TT Diệm tin cẩn tướng Tỵ từ dạo năm 1954 qua vụ tướng Hinh. Lúc ấy tướng Tỵ đang làm Tư Lệnh Đệ Nhất Quân Khu khi mà TT Diệm không có hơn một đại đội phòng vệ Dinh Thủ Tướng thì chính tướng Tỵ đã âm thầm tìm mọi cách ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Tháng 9 -1954, tướng Hinh dựa vào lực lượng Quân đội Viễn Chinh Pháp quyết liệt hạ cho bằng được Thủ Tướng Diệm thì tướng Tỵ bên ngoài vẫn giữ tư thế quân nhân thuần túy, không đứng về phe tướng Hinh cũng không công khai ủng hộ Thủ Tướng Diệm, nhưng trong bóng tối ông đã có thái độ dứt khoát ủng hộ Thủ Tướng Diệm. TT Diệm cảm kích tấm lòng trung kiên của tướng Tỵ từ dạo đó. Ông Nhu không ghét tướng Tỵ nhưng cũng không có nhiều thiện cảm với vị tướng lãnh xuất thân từ thế hệ lính Pháp. Tương quan tình cảm và công việc giữa tướng Tỵ với ông Nhu gần như không có. Cả Năm, tướng Tỵ mới gặp ông Nhu vài ba lần và mỗi lần đôi bên chỉ chào hỏi xã giao. Riêng tướng Tỵ , tỏ ra khâm phục ông Nhu và dành cho ông một sự kính trọng đặc biệt.

Sau vụ đảo chánh hụt 11-11-1960, TT Diệm lại càng tin yêu tướng Tỵ  và hai con người cùng lớp tuổi đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Nhưng cũng sau cuộc đảo chính hụt 11-11-60, môt số nhân vật cao cấp có ý tìm cách để TT Diệm thay thế tướng Tỵ. Nhưng tướng lãnh lúc ấy xem ra cũng không còn ai hơn tướng Tỵ – người được điểm này lại mất điểm kia – ông Tỵ là loại “chung chung” tuy vậy ông cũng bị một số tướng trẻ dèm pha nhất là số tướng ta thuộc hàng con cưng của ông Cẩn.

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, uy quyền tập trung vào một ông Tổng Thống. Do đó, Phó TT Thơ vẫn ở tư thế một viên chức cao cấp hơn là một PTT của nước VNCH. Ông Thơ không có huy hiệu riêng – ngoại trừ những lần đại diện Tổng Thống tham dự các buổi lễ lớn – Xe của PTT không có hiệu kỳ cũng không cắm quốc kỳ – Ông đi làm bình thường như một công chức – ngồi cạnh tài xế và cũng không có Harley hộ tống.

Riêng Đại tướng Tỵ là người thứ 2 của Đệ Nhất Cộng Hòa được chia xẻ uy quyền với ông Tổng Thống. Mỗi lần ông vào Dinh là một sự uy nghi… trong khi Bộ Trưởng Quốc phòng rất khiêm tốn bình thường. Tư Dinh của tướng Tỵ ở đường Cường Để được xây trên một ngọn đồi chính là do chỉ thị đặc biệt của Tổng Thống Diệm. Từ năm 1956, gần như không có một cuộc kinh lý nào của TT Diệm mà không có mặt tướng Tỵ.

Khi biến cố Phật giáo bùng nổ thì Đại Tướng Tỵ lâm trọng bệnh. Khi tiễn chân Đại Tướng Tỵ, TT Diệm tặng cho ông một chuỗi hạt và nói: “Đại tướng nhớ cầu nguyện cho tôi…Tôi xin ơn trên phò hộ cho Đại Tướng” – Tướng Tỵ là một thứ tín đồ công giáo trong tâm hồn – (Calholique de coeur) – Ông thuộc nhiều kinh Công giáo và có lòng sùng mộ Đức Mẹ rất đặc biệt. Mặc dầu gia đình tướng Tỵ là Phật giáo thuần thành – Tổng Thống Diệm ngậm ngùi phàn nàn với Đại Úy Bằng: “Đại Tướng khó qua khỏi…bệnh của Đại tướng không biết sống chết lúc nào, khó qua khỏi năm nay” - TT Diệm đỡ vai tướng Tỵ và cùng theo ông xuống đến tận thềm Dinh Gia Long. Cánh cửa xe đóng lại, Tướng Tỵ cúi đầu chào, ông Tổng Thống vẫy tay với một vẻ ngậm ngùi.

TT Diệm chỉ thị cho Bộ Trưởng phụ tá Quốc phòng phải tổ chức lễ tiễn chân Đại Tướng Tỵ một cách trọng thể đặc biệt. Ngày Đại Tướng ra phi trường Tân Sơn Nhất đáp máy bay đi Hoa Kỳ, ông đã được hưởng đầy đủ nghi lễ dành cho vị Thống Soái. Cửa phòng Khách Danh Dự (VIP) của phi trường được mở rộng….Đây là một vinh dự đặc biệt, vì chỉ có Tổng Thống mới đi qua cửa này… Trước năm 1963, phòng Khách Danh Dự phi trường Tân Sơn Nhất được xem là nơi tiêu biểu cho uy quyền và thể thống Quốc gia. Dù là ông Ngô Đình Nhu, Đức cha Thục, Phó TT Thơ, chủ tịch Quốc Hội vẫn đi vào phi trường theo ngả thông thường. Năm 1961, vợ chồng ông Nhu qua Maroc với tư cách đại diện chánh thức của TT Diệm thì lần này Phòng khách Danh Dự mới mở cửa đón tiếp vợ chồng ông Nhu.

Tuy là Tổng Tham Mưu Trưởng nhưng Đại tướng Tỵ có nhiều uy thế rất nhiều so với Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng, đó là một ưu đãi đặc biệt của TT Diệm đối với ông.

Tại Mỹ, khi nghe tin TT Diệm bị thảm sát, Đại tướng Tỵ bàng hoàng rồi ôm mặt khóc. Sau này khi hồi hương, mỗi lần nghe ai nhắc đến TT Diệm thì Đại tướng Tỵ lại than thở: “Hồi ông Cụ tiễn chân tôi qua Mỹ, ông Cụ tưởng qua chết…Ai dè ông Cụ lại chết trước qua”. Đại tướng vẫn giữ chuỗi hạt mà TT Diệm tặng ông. Đại tướng vẫn thường tâm sự: “Ông Cụ chết như vậy qua tin  chắc hồn ông Cụ linh thiêng lắm”. Trước phút lâm chung, tướng Tỵ vẫn giữ trong lòng tay chuỗi hạt của TT Diệm. Ông coi đó như một kỷ vật thiêng liêng.

 CON NGƯỜI TÌNH CẢM

Nhiều người vẫn tin TT Diệm là con người khô khan tình cảm. Điều này không đúng và trái lại ông quá nhiều tình cảm. Nhiều tướng tá và viên chức cao cấp được ông tin cẩn trọng dụng trước hết vì tương đắc với ông và “đánh trúng” con người tình cảm của ông. Trường hợp Đại Tướng Tỵ, không đảng phái, không phe nhóm, không luồn cúi ông Nhu, ông Cẩn hay Đức Cha Thục nhưng lại được ông Tổng Thống tin yêu trước hết là cái tình già… thỉnh thoảng buồn buồn, có khi đang đêm ông Tổng Thống lại điện thoại gọi Đại Tướng vào Dinh rồi hai người mạn đàm chuyện đời cho đến khuya. TT Diệm nói chuyện Tam Quốc, Đại Tướng Tỵ góp lời bàn thêm. TT Diệm nói về cái địa danh miền Tây thì Đại tướng Tỵ góp chuyện cái hay cái lạ ở miệt vườn… Câu chuyện không đầu không đuôi giữa hai ông có khi kéo dài đến khuya. Đại tá Đỗ Mậu được TT Diệm hết lòng che chở, tin dùng thương yêu trước hết vì ông Mậu “hầu chuyện” hợp ý với ông Tổng Thống. Cả câu chuyện tử vi lý số năm này qua năm khác… Ông Tổng Thống cùng Đại Tá Mậu luận bàn không biết chán.

MỐI TÌNH BÍ MẬT CỦA TT NGÔ ĐÌNH DIỆM

Có một sự thực đã như một thứ hỏa mù bao trùm miền Nam từ 15 năm qua: Đó là sự hiểu lầm, nghĩ quẩn lo quanh và dư luận.

Dư luận bao giờ cũng chỉ là dư luận. Thế nhưng quần chúng Việt Nam dễ tin, dễ nghe cho nên dư luận về một người này hay một chuyện kia được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dư luận mặc nhiên trở thành sự thực. Hay ít ra cũng như thực. Rồi quần chúng sống cho sự thực đó phản kháng mai mỉa hay bằng lòng với sự thực đó. Về sự hiểu lầm, nghĩ sai cũng thế, ngày này qua ngày khác, tích lũy lại rồi bộc phát ra tùy theo hoàn cảnh mà trở nên thù oán nhau.

Con người quốc gia ở miền Nam, tuy đứng cùng trong một chiến tuyến, tuy có chung một kẻ thù nhưng rồi vì ngộ nhận, vì chính kiến dị biệt về đường lối và cách thế… Trong mười mấy năm qua, nhưng con người quốc gia ấy đã quay lưng lại nhau “ra lườm vào nguýt và đánh đấm” nhau rất chí tình.

Nói về sự ngộ nhận thì có cả hàng trăm hình thức ngộ nhận. Từ đó đồng bào sẵn sàng thêu “hoa dệt gấm” cho nhau bằng cả cái gia tài tiếu lâm vô hạn của dân tộc. Về TT Diệm chả hạn. Trước đây có dư luận lưu truyền trong dân gian là ông Diệm bất lực, ông Diệm có tướng ngũ đoản và cơ quan sinh dục của ông nó bất lực và không như người bình thường. Do đó Tổng Thống Diệm không lập gia đình và cứ đứng gần đàn bà thì ông đỏ mặt thẹn thùng. Nhiều người bạn của chúng tôi, kể cả những người gần Tổng Thống nhất cũng như trong hàng ngũ đối lập, đều thắc mắc về các tiểu tiết mà họ cho là hấp dẫn, ly kỳ cần tìm hiểu: Tổng Thống có như một người bình thường về cơ quan sinh dục không. Cái quan hệ gấp trăm ngàn lần thì chả để ý, song cái “tiểu tiết đó” xem ra thiên hạ thắc mắc lắm. Rồi người ta chế tạo ra nhiều giai thoại rất ly kỳ và rất phù hợp với bản chất trào phúng và tiếu lâm của đại đa số dân Việt. Ông Phạm Văn Nhu , nguyên Chủ Tịch Quốc hội thời TT Diệm trong buổi trà đàm cho biết rằng, ông biết TT Diệm và hai người thân với nhau từ năm 11,12 tuổi ở xứ Huế. Những năm thơ ấu đó trong những lúc hai người sống rất tự nhiên theo sự tự nhiên của tuổi trẻ, Ông Phạm Văn Nhu không thấy có gì khác lạ nơi con người ông Ngô Đình Diệm nghĩa là TT Diệm hoàn toàn bình thường về cơ thể như tất cả mọi người. Điều này thiết tưởng cũng nên tìm hiểu vì ai cũng hiểu rõ rằng, yếu tố sinh lý trong một con người rất quan hệ đến đời sống tâm lý của con  người đó, mà con người lãnh tụ thì yếu tố tâm lý rất quan hệ đối với những quyết định chính trị trong tư thế lãnh đạo.

Năm 1948, cụ Thượng Thư Ngô Đình Diệm vào miền Nam khi thì ông ở Vĩnh Long với bào huynh Ngô Đình Thục, khi thì ông lên Saigon lưu ngụ tai khu Thánh Đường Saint Pierre. Có một thời gian, ông Diệm đã sống tại nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn.

Khu Thánh đường ấy, 15 năm sau (48-63) Ông Diệm trở lại lần cuối cùng rồi vĩnh viễn ra đi về cõi thiên cổ. Ông Diệm thích tâm sự hàn huyên với Cha Tam, nên dù đi đâu xa, ông vẫn lưu nhớ. Khi ở Vĩnh Long về Saigon, ông Diệm thường đến làm việc xã hội, họp với nhóm Tinh Thần và Hoa Lư tức là hai tờ báo hoạt động theo khuynh hướng xã hội Công giáo, trụ sở của nhóm Tinh Thần và Hoa Lư đặt ngay trong một văn phòng trên tầng lầu hai của cư thất Luật sư Lê Văn Kim (vị LS đậu nhiều bằng cấp khác nhau. Năm 1945 bị Nhật giết vì cho rằng LS Kim là gián điệp của quân đội đồng minh). Phía dưới căn lầu đó là văn phòng của LS Nguyễn Hữu Thọ (hiện là Chủ Tịch MTGPMN). Ông Diệm hằng ngày đến trụ sở này để làm việc với một số cộng sự viên của ông, trong số đó có GS Phạm Văn Nhu vừa từ Huế vào.

GS Nhu cho biết, trong anh em ông vẫn “tiếu lâm” với nhau sau những giờ làm việc mệt nhọc và cũng là cách để đỡ nhớ vợ con.

Nhưng mỗi khi ông “Thượng Thư” đến thì anh em ông lại phải bắt tay vào công việc hội họp. Ông Diệm không thích chuyện tếu.

Nhưng ông có thể ngồi nói chuyện liên miên hằng hai ba giờ, hết chuyện đất nước đến chuyện Tây, chuyện Mỹ, chuyện trên trời dưới biển. Những lúc tâm sự như thế, ông Diệm cười rất có duyên và yêu đời hơn cả những dân có “tình ái” yêu đời.

Năm 18, 19 tuổi, khi ông Diệm đang là sinh viên trường Hậu Bổ, vào một buổi sáng mùa hè nọ, ông đang ngồi đọc sách trên lầu tại nhà bà chị ông tức Bà Cả Lễ, thì ba bốn cô gái Huế đến chơi nhà bà Cả. Vốn là những tiểu thơ khuê các trong một xã hội mà làn sóng lãng mạn phương Tây đang đổ xô vào tâm hồn giới trẻ (tiểu Thuyết Tố Tâm 1922 là một thí dụ)

Các nàng tiểu thơ kia đã tìm mọi cách chọc ghẹo, chài mồi cậu Ấm Diệm, tuy lùn nhưng có bộ mặt điển trai. Vào một thời đại “phi cao đẳng bất thành phu phụ” và ở giữa đất thần kinh của Vua Chúa quan quyền tất nhiên là Cậu Ấm Diệm trở thành đối tượng cho lòng say mê của bao nhiêu tiểu thơ. Nhưng hôm ấy, trước sự mồi chài, chọc ghẹo của các cô, Cậu Ấm Diệm bỗng nhiên nổi nóng, đứng từ trên lầu mắng các cô, những rằng “con gái gì mà hư thân trắc nết như rứa”.

Thêm vào đó, cậu Ấm Diệm khi còn học ở trường Pellerin đã từng nuôi mộng đi tu để trở thành một sư huynh sau này. Từ buổi cậu bất thần nổi giận với các cô, cả vùng Phú Cam các cô rỉ tai nhau phê bình: “Cậu Diệm sợ đàn bà con gái“. Cũng từ đó, khi trở thành tri phủ Hòa Đa, Tuần Vũ Phan Thiết, ông Diệm đã “ở vậy” dù có rất nhiều gia đình đường quan vị vọng đánh tiếng gả con gái cho ông .

Cho đến năm 1948, khi ông Diệm đã gần tuổi ngũ tuần, giới thân cận của ông không ai nghe thấy ông Diệm nói chuyện về đàn bà con gái.

Phần vì nể ông, cho nên trong những lần trò chuyện với ông cũng chẳng ai đề cập làm chi. Lại có một số người “đạo đức giả” mỗi khi gặp ông chỉ toàn nói chuyện tu hành đạo đức Thánh hiền Hóa cho nên trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, ông Diệm đã không có dịp nào xử dụng ngôn ngữ về thế giới đàn bà và tình ái. Rồi dần dần, mỗi khi nhắc đến ông Diệm, người thân và cộng sự viên của ông đứng riêng trong một thế giới không vướng mắc mùi “tục lụy”.

MON COEUR A SON SECRET

Sau này khi ông Diệm chấp chánh cho đến năm 1963 người ta lại càng hồ nghi rồi trở nên tin tưởng ông “bất thường sinh lý”. Quanh cái tiểu tiết đáng tò mò này giới có ăn học lại thường đem ra phân giải theo sự ăn học. Giới bình dân thì lại rỉ tai nhau theo cái máu tráo phúng của giới bình dân Việt Nam. Về điều gì chứ cái sự liệt của một người không đi tu, dân Việt ta coi bộ không chịu và người đó sẽ bị coi là dân khó tính, dân không chịu chơi, dân mất thăng bằng và hay quan trọng hóa. Sau vị 11-11-60 một Luật sư – người của chế độ- lúc ấy đã phẩm bình trong lúc hơi men chấp choáng, đại ý rằng: “Ông Cụ thì liệt, ông Nhu coi bộ “impuissant” cho nên bà Nhu mới tha hồ khống chế tung hoành theo cái luật Âm thịnh Dương suy”.

Như trên đã viết, ông Diệm là một người bình thường trong phần “cơ cấu quan hệ của thân thể” GS Phạm Văn Nhu kể lại sau:

Vào một buổi sáng đẹp trời, năm 1948, ông Diệm từ nhà thờ Cha Tam đến tìm ông ở trụ sở Nhóm Hoa Lư Tinh Thần (nhà LS Kim). Hôm ấy, ông Diệm vui tươi lắm, mất hẳn sự ưu tư khắc khổ. Ông Nhu nghi trong bụng có lẽ “Cụ Thượng Thư” mới nhận được tin gì tốt lành đây. Ông Diệm bảo ông Phạm Văn Nhu: “Mọi công chuyện hãy xếp lại vào đó sáng nay bọn mình đi Sở Thú”. Ông Nhu đi mượn chiếc xe hơi Limousine của một vị tướng Cao Đài.

Rồi hai người “thả ga” lên Sở Thú. Dọc đường ông Diệm đề nghị “bọn mình ghé tiệm nào uống ly café chơi”. Và đó cũng là một điều lạ khiến ông Nhu thắc mắc: “Hẳn ông già phải có một chuyện chi quan hệ lắm đây“… Sau tuần café sữa, hai người lên Sở Thú, đi một vòng thưởng ngoạn cỏ cây hoa lá chim muôn. Nhưng xem chừng ông Diệm có điều gì “nao nức” khác hơn là chuyện đi chơi Sở Thú. Ở Sở Thú ra, ông Diệm có vẻ ngại ngần, đắn đo một lúc lâu, rồi bảo ông Nhu: “Ông cho tôi lên đường Pasteur và đường Le Grand De Laliraye (tức Phan Thanh Giản hiện nay). Đến nơi, ông Diệm bảo ông Nhu khóa xe rồi đi theo ông. Hai người vào một căn nhà trên tầng lầu hai (một dãy nhà dài, gồm nhiều căn và hầu hết là công chức người Pháp). Ông Nhu chỉ hỏi: “Cụ vào nhà ai ở đây?” Ông Diệm vẻ mặt tươi hẳn lên và đáp: “Tôi vào thăm con Mệ nó”. Lần đầu tiên ông Nhu nghe thấy ông Diệm nói đến “con Mệ nó” ông đi thăm “con Mệ nó”. Trước khi về nhà ông Diệm nói: “con Mệ nó hiền đức lắm” – ông Diệm gõ cửa phòng, một người đàn ông trạc 50 tuổi ra mở cửa, vừa trông thấy ông Diệm, ông ta đã cúi đầu kính cẩn thưa: “Mời Cụ Lớn vào”. Ông Diệm hỏi ngay “Bà có nhà không?” Người đàn ông thưa: “Bẩm cụ lớn Bà con mới vừa ra Nha Trang. Mời cụ lớn vào nhà dùng nước đã” – vẫn theo lời GS Phạm Văn Nhu, ông Diệm đang vui bỗng nhăn mặt lại, không vui.  Ông nói trống không: ”lạ chi hè, đi Nha Trang mà không cho biết hỉ”. Ông Diệm đứng bất thần một lúc rồi hỏi người đàn ông: “ông có biết Bà ra Nha Trang ở nơi mô không, ông có địa chỉ không?” Người đàn ông đáp có biết. Ông Diệm bỗng vui hẳn lên rồi tíu tít quay sang phía ông Nhu: “ông có mang bút giấy, ông ghi lại cho tôi ngay”.

Ông Nhu nghĩ bụng hẳn ông Diệm lui tới căn nhà này luôn nên gia nhân mới thân mật mời chào như vậy.

Căn nhà đó lần đầu tiên ông Phạm Văn Nhu đến thăm, và ông cũng là người duy nhất được ông Diệm tin cẩn cho đi theo. Khi đã có địa chỉ rồi, ông Diệm rất mừng trở về và bảo ông Nhu phải sửa soạn hành lý đi ra Nha Trang ngay để thăm “cho biết”.

Dọc đường trở về nhà ông Diệm đã tâm tình với ông Nhu là: “Con Mệ nó” tuy lấy Tây, tuy là loại đàn bà bị người khinh rẻ, nhưng lòng dạ tốt lắm, và rất thương đồng bào. Nhờ “con Mệ nó” (ông Diệm nhắc đi nhắc lại nhiều lần) ông đã cứu được nhiều người quốc gia bị mật thám bắt. Ông Diệm cho biết thêm, chồng “con Mệ nó” là người Pháp tòng sự tại Sở Mật Thám liên bang bót Cantinat (Sûreté Fédérale) mỗi khi có bạn bè hay người quen thuộc phe quốc gia bị mật thám bắt ông Diệm lại nhờ “Con Mệ nó” lập tức chồng “Con Mệ nó” can thiệp trả tự do ngay.

(Sau này cũng vì một vụ can thiệp như vậy do ông Diệm nhờ cậy qua trung gian “con Mệ nó”, người chồng Pháp của bà bị thải hồi thất nghiệp sau phải lên Đà Lạt làm cho một hãng sửa xe hơi. Rồi người chồng của bà đã bị chết trong một tai nạn máy bay trên không phận Saigon).

Ngày hôm sau hai ông đã có mặt tại Nha Trang. Ông Nhu đi kiếm địa chỉ trước, để về cấp báo cho ông Diệm “con Mệ nó” của ông đang ở nơi mô. Khi gặp mặt bà ta, ông Nhu mới ngã ngửa người kinh ngạc. Người đàn bà này không ai khác hơn là cô gái Huế mới thủa nào hai người đã từng quen mặt biết tên và cô gái Huế xinh tươi thuở ấy cũng đã từng biết mặt, nghe tên “cậu Ấm Diệm”.

Qua bao nhiêu năm xa cách, ông Nhu không hiểu từ một duyên cớ nào đã phải đem thân lưu lại đến tận Sài Gòn và trở thành vợ một người da trắng. Ông Nhu cho biết thêm: “Đây là người đàn bà thuộc sắc nước hương trời, ăn nói lại có duyên dáng mặn mà“. Ông Diệm đã tâm tình với ông Nhu: “Tôi thương con Mệ nó hiền đức, tuy lấy Tây mà nó vẫn còn tình còn nghĩa với người đồng bào“.

Bà ta ra Nha Trang lần ấy là để thăm xứ Thùy Dương lần cuối cùng, trước khi sang Pháp sống lưu lạc nơi quê chồng. Một nhà thơ Pháp từng than thở cho nỗi đoạn trường ân ái “Mon coeur a son secret, mon amour a son mystère”. Biết đâu ông Diệm đã chẳng từng nuôi cơn mộng sầu nhớ thiên thu của tình trường. Chỉ biết rằng, vẫn theo lời ông Nhu, từ đấy rồi…thôi, riêng ông không bao giờ còn nghe thấy ông Diệm nhắc lại, ba tiếng “con Mệ nó” với bao nhiêu náo nức như lần đi thăm Sở Thú và đến Nha Thành.

Một số người có khuynh hướng thần thánh hóa Tổng Thống Ngô Đình Diệm (mà Bộ trưởng Trần Chánh Thành là một)

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site