lịch sử việt nam

Trang Chính

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu-Nhật-Tân:

Blog Cu-Làng-Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tư-Tưởng Phật-Giáo:

Tưởng-Niệm 50 Năm Anh-Hùng Ngô-Đình-Diệm, Anh-Hùng Ngô-Đình-Nhu Vị-Quốc Vong-Thân 1963-2013:

Tưởng-Niệm 50 Năm Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức Tự-Thiêu 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Văn-Hóa Tộc Việt:

Weblinks:

 

 

Lịch-Sử Việt-Nam Cận Đại

- Cuộc Chiến Tranh Hồ chí minh Đánh Dân Tộc Việt Nam Tập 1 -

lịch sử việt nam, tem thư việt nam

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17

Nhóm Tâm Việt Úc Châu Biên Khảo

(tái bản có sửa chữa)

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1
CUỘC CHIẾN TRANH CỦA HỒ CHÍ MINH..       tr. 05
CHƯƠNG 2
LỄ TẾ CỜ CỦA HỒ CHÍ MINH                                 36
CHƯƠNG 3
HỒ CHÍ MINH, KẺ MANG TÊN GIẢ                         75
CHƯƠNG 4
CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH                           97

++++++++++++++++++++++

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010

Năm sinh nào là “thứ thiệt” của Bác

Tác giả Bùi Tín đã viết: “Không ai biết năm sinh “thứ thiệt” của ông Hồ là năm nào!” Hồ Chí Minh khai đủ các năm, tùy nơi, tùy lúc. Trong sách Trần Dân Tiên, ông khai 1890. Khi là Yên Sơn, một bí danh khác của ông, ông khai 1891. Trong đơn xin nhập học trường Thuộc địa của Pháp, ông khai 1892. Với Sở cảnh sát Pháp ở Paris, ông khai 1894. Với sứ quán Nga ở Bá Linh để xin qua Nga học, ông khai 1895. Chị Ba Sophia của Bùi Tín nghiên cứu tài liệu trong kho lưu trữ của Liên Xô cũng cho biết: “Tài liệu năm 1934 ông khai 1894, và tài liệu năm 1938 ông ghi là sinh năm 1893!”

Trong bài viết Đừng hiểu sai, viết lầm về Hồ Chí Minh, tác giả Nguyễn Tường Bá có lời khuyên phải rất thận trọng về “Bác Hồ” và viết: “Tìm hiểu năm nào đúng là việc làm vô bổ và chúng ta chỉ cần ghi nhận khi cần trẻ để du học thì Bác khai trẻ hơn, và khi về nước Bác lại khai già hơn, tất cả là do nhu cầu thực tế và sự khôn vặt của Hồ”.

Thật đúng vậy, nhất cử nhất động của Hồ Chí Minh đều nằm trong “sự tính toán sách lược” (chữ của Lữ Phương). Vì khi về nước để làm Cha già Dân tộc, thì Bác phải điều động cho Trần Dân Tiên khai năm sinh là 1890 để cho Bác được 55 tuổi! Hồ Chí Minh đúng là biểu tượng của GIAN XẢO CÓ TÍNH TOÁN THEO SÁCH LƯỢC! Bây giờ, có cháu nào còn tin được “Bác Hồ”!

Di chúc nào là “thứ thiệt” của Bác

Về năm sinh của “Bác” thì có năm ba năm khác nhau. Về tên giả của “Bác” thì không biết cơ man nào mà kể. Cho đến Di chúc của “Bác” cũng nằm trong hào quang tuyên truyền của Đảng. Có Di chúc 1, mà lại có Di chúc 2. Thế nên thực hư, chân giả, thiện ác nhòa nhập thành một khối hỗn loạn khôn phân! Dân tộc không biết tin cái nào? Ai cũng biết khi Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969 và được phát tang ngày 3-9-1969, ông để lại Di chúc rằng sẽ đi gặp các ông tổ Cộng sản Mác, Lê, v.v… Mãi đến cuối thập niên 80, người ta thấy xuất hiện ở Pháp một Di chúc khác đề ngày 14-8-1969, nói là do Hồ Chí Minh viết để lại cho đứa con gái lai tại Pháp. Bản chụp Di chúc 2 này do một người Pháp ở Paris gởi cho Luật sư Nguyễn Văn Chức ở Hoa Kỳ, kèm theo bản chụp bút tự của Hồ Chí Minh để chứng tỏ Di chúc là do chính tay Bác viết. Sau đó Luật sư Chức đưa câu chuyện về Di chúc 2 lên internet của Thư viện Toàn cầu ngày 10-5-2007.

Trong Di chúc 2 này, Hồ Chí Minh kể lể: “Vừa mới đây, Lê Duẩn có đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi, buộc tôi phải viết bản Di chúc theo ý họ. Tôi đã viết, mà trong bụng thì tấm tức vô cùng.”

Ông lại có lời hối hận rằng: “Cái nhầm tai hại nhất của tôi là đi theo Cộng sản Mác-xít mà không biết là chủ nghĩa này dần dần trở thành lạc hậu và phản động, những người đi theo Mác-xít chỉ là giả bộ, để đánh lừa giai cấp nghèo mà cướp lấy chánh quyền cho nước Nga.”

Hồ Chí Minh cũng nói về việc tặng Tổng thống Ngô Đình Diệm 2 cành đào vào đầu năm 1963 với bức thư đề nghị cụ Ngô cùng ông “thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân 2 miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người”. Ông viết tiếp rằng chuyện vỡ lở ra, cho nên cụ Ngô bị giết ở trong Nam, còn ở ngoài Bắc ông bị kiểm soát rất khắt khe, không có quyền quyết định gì nữa cả. Sau vụ đó ông than rằng: “Đáng lẽ ra thì tôi bị giết ngay từ hồi đó rồi, nhưng tên tôi còn bị thế giới biết đến, nên họ còn phải lợi dụng mà để cho tôi sống thêm. Tôi đã già, râu tóc đã bạc mà còn phải sống trong cảnh ngục tù, cứ nghĩ đến điều này là tôi ứa nước mắt”.

Ở phần cuối Di chúc, ông không nhắc nhở gì tới đứa con Việt Nguyễn Tất Trung mà chỉ nói: “Tôi không có vợ, nhưng cũng có được một đứa con gái lai Pháp. Tôi ước mong con gái tôi khi đọc được tờ Di chúc này sẽ tha thứ cho tôi không đủ bổn phận làm cha, nhưng phụ tử tình thâm, tôi luôn luôn nhớ tới con gái tôi với muôn vàn âu yếm”.

Người viết xin miễn bàn về Di chúc 2 này. Bây giờ thì thực giả khôn phân vì Đất nước đã có quá nhiều giả dối!          

Đất nước quá nhiều giả dối!

Câu chuyện tràng giang đại hải về tên tuổi của Bác, nói tới đâu cũng không đủ. Còn có 4 tên là Nghe Lỏm, CB (của Bác), Trần Lực, Yên Sơn, người viết chưa tìm ra bản văn mà Bác đã ký đề bằng các tên ấy. Nhưng thôi, ngần ấy giả dối gian xảo của Bác cũng tạm đủ để Dân tộc biết Bác là thủ phạm đã lường gạt Dân tộc bằng cách xây dựng Thiên đàng Xã hội chủ nghĩa bánh vẽ, bằng Bản Tuyên ngôn Độc lập giả dối, bằng cuộc Cách mạng Dân tộc mị dân, xây dựng một xã hội đầy dối trá gian xảo, mồ liệt sĩ giả, nhà tình thương giả, tiền polymer giả, anh hùng tí hon Lê Văn Tám giả (tự đốt mình chạy vào kho đạn của Pháp để kho đạn phát nổ), chiến sĩ Nguyễn Văn Cừ giả (lấy thân mình lấp ổ châu mai), chiến sĩ Phan Đình Giót giả (đã bị thương nhưng vẫn lấy vai mình cho đồng đội tựa trung liên mà bắn máy bay địch), chiến sĩ Bế Văn Đàn giả (lấy thân mình chặn bánh xe đại pháo cho khỏi tuột dốc), bằng cấp giả, thí sinh vào phòng thi công khai dùng phao, các sư cha quốc doanh tu hành giả dối, chiếm đoạt chùa chiền để làm kinh tài cho Đảng, tham gia chính trị thì được phong chức dân biểu Quốc hội còn các nhà sư đạo hạnh và các vị linh mục chân chính thì bị tố cáo là lo làm chánh trị, bầu cử thì theo kiểu Đảng cử Dân bầu, Quốc hội dân biểu giả không lo việc dân vì dân biểu biến thành Đảng biểu và Quốc hội biến thành Đảng hội, cán bộ có quyền có chức thì lo tư túi, nhận công trình xây cất thì lo rút ruột, cán bộ tham nhũng bị bắt thì lo chạy án, cán bộ cai quản lâm trường bảo vệ môi sinh thì biến thành lâm tặc, cán bộ muốn làm ăn trái pháp luật thì phải tìm ô dù, ăn cắp công quỹ thì phải dọn dẹp sạch sẽ để hạ cánh an toàn, người dân đến cửa công để xin giấy tờ thì phải biết vấn đềđầu tiên”...

Người cha bất nhân, người chồng bất nghĩa

Trong truyền thống Dân tộc với Luân thường đạo lýLễ nghĩa liêm sỉ, chúng ta ngậm ngùi thương tiếc những ngày xa xưa khi chúng ta thấm nhuần nếp đạo Tu tề trị bình và lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc. Đạo làm người, tức là nhân đạo, không phải chỉ là giáo lý riêng của Khổng giáo mà chính là căn bản đạo đức chung của nhân loại. Ngày hôm nay, trong những quốc gia dân chủ được tự do bầu cử, những chính trị gia khi ra ứng cử, thường trình cho cử tri đoàn biết hình ảnh gia đình êm ấm với cảnh vợ con đề huề hiếu thuận, vì đấy là một lợi điểm dễ chiếm cảm tình của cử tri, vì hình ảnh gia đình êm ấm thuận hòa là hướng tiến hóa của nhân loại, là giấc mơ thơ mộng ngàn đời của loài người.

Trở lại chuyện Hồ Chí Minh với việc giết cô Xuân, cướp đoạt quyền sống và quyền làm mẹ của cô cùng với quyền được hưởng tình mẫu tử thiêng liêng của con ông, chỉ vì chút hư danh làm Cha già Dân tộc, ông đã nhúng tay vào máu và phạm vào tội ác vô cùng kinh tởm để trở thành người cha bất nhân người chồng bất nghĩa trong lịch sử Việt Nam. Nhân đây xin nhắc lại lời của đức Mạnh Tử: “Nếu phải giết một người vô tội để lấy hết thiên hạ thì đó cũng là chuyện không nên làm”.

Nhưng trong con người duy vật vô thần của Hồ Chí Minh chỉ có toàn Mác, Lênin, Stalin và Mao, chứ nào đâu có Khổng Mạnh cùng Đức Phật và Đức Chúa, cho nên ông đã đạp đổ Tu tề còn phép Trị bình của ông thì không phải do Đạo nghĩa Pháp trị mà chỉ áp đặt bằng gươm đao súng đạn sát hại hàng triệu nhân mạng. Bộ máy nghiền của Đảng phát động bởi vô số công an do Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn đào luyện đã nghiến nát hết tự do, dân chủ, hạnh phúc và cả sanh mạng của người dân. Dân tộc bị dìm sâu xuống cùng cực trong nô lệ. Đất nước thành nhà tù khổng lồ cho đến nỗi nếu cột đèn biết đi thì chúng cũng vượt biên. Con đường Bác đi, tức con đường Kách mệnh chất đầy xương máu của Dân tộc mà Nguyễn Tất Thành đã dẫm đạp lên để đi để trở thành Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, thì thật quá bi đát cho Dân tộc Việt Nam!

Xây dựng lại đất nước để đón mùa xuân Thăng Long bất diệt

Nhưng cùng tắc biến, biến tắc thông, Trời đất xoay vần, hết cơn bỉ cực rồi sẽ đến hồi thái lai. Những cánh quạ đen rồi sẽ bay đi. Bầy én xuân sẽ rủ nhau về. Dân tộc sẽ bừng lên làm lại Cuộc Cách mạng Đạo nghĩa pháp trị. Truyền thuyết Một mẹ trăm con, tinh hoa của Dân tộc, sẽ như cơn mưa thương yêu thuần hòa thấm nhuần Đất Tổ. Như câu sấm ký đã truyền tụng Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về, Nguyễn Tất Thành ra đi khỏi nước với tên Ba, rồi trở thành Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Trần Dân Tiên, vân vân... rồi thành HCM, sau cùng trở lại thành Nguyễn Tất Thành cha đẻ của Nguyễn Tất Trung. Phần sau của câu sấm ký Giặc đến Bồ Đề thì giặc sẽ tan rồi sẽ ứng nghiệm. Khi giặc tan rồi, Dân tộc sẽ dời lăng Bác về hang Pắc Bó, nơi có đồi Mác và suối Lênin, chỗ ngụ của Bác ngày xưa, để cho vườn hoa Ba Đình được thắm tươi và thanh khiết. Hướng về mảnh đất thiêng Nghìn năm văn vật, cái nôi của nền Văn hóa Việt tộc, toàn dân sẽ bừng lên nỗi vui mừng đón mùa xuân Thăng Long huy hoàng rực rỡ.
        Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
        Mùa Quốc hận 2007
        Nhóm Tâm Việt Sydney    

CHƯƠNG 4

CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH

Trong Cuộc chiến tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo đánh Dân tộc, cuộc chiến thường được gọi là cuộc tranh chấp Quốc Cộng, thì phe Quốc gia Dân tộc chịu thiệt thòi vô cùng phải ở thế hạ phong dẫn đến thất bại ngày 30-4-1975. Một trong những nguyên nhân là vì trong hàng ngũ Quốc gia Dân tộc có quá nhiều kẻ ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản, những kẻ đâm sau lưng chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, những kẻ nằm vùng theo những sách lược địch vận của Cộng sản như: trí vận, tôn giáo vận, văn hóa vận, sinh viên vận, học sinh vận, phụ nữ vận, binh vận… nhiều vô số không thể nào kể hết, và sau ngày 30-4-1975 lại có thêm kiều vận nữa. Nào là bà Ngô Bá Thành hợp cùng ni sư Huỳnh Liên với Phong trào Phụ nữ đòi Quyền sống xuống đường gây rối, nào là Phong trào Phản chiến với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cứ chĩa mũi dùi về phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong khi Bộ đội Cộng sản hung hăng đòi tiêu diệt hết các nước tư bản chủ nghĩa để tiến tới Thế giới Đại đồng thì lại được nhạc sĩ binh vực! Lại còn thêm những trí thức ưu tú của miền Nam, tự nhận là Thành phần Thứ ba đứng trung lập, nhưng lại do Cộng sản giật dây điều khiển.

Chuyện Giáo sư Châu Tâm Luân

Có một trường hợp bây giờ thuật lại nghe giống như chuyện tiếu lâm. Đó là chuyện giáo sư Tiến sĩ Châu Tâm Luân. Ông được học bổng đi Mỹ học và đậu bằng Tiến sĩ kinh tế nông nghiệp. Khi về nước, ông dạy ở các trường Nông Lâm Súc. Trên bục giảng Đại học trước các sinh viên, ông thường phê bình: “Chế độ Sài Gòn như một cái áo rách nát đến nỗi không còn có thể vá, cách duy nhất là xé bỏ và may một chiếc áo mới”.

Rồi lời ước muốn của ông hóa thành sự thật. Ngày 30-4-1975 Sài Gòn thất thủ, Việt Cộng chiến thắng, giáo sư Luân được sống với Việt Cộng, nhưng ông lại không muốn cái áo mới màu đỏ của Việt Cộng nên bỏ trốn đi vượt biên! Có người hỏi tại sao ông không ở lại phục vụ mà lại vượt biên thì ông đáp: “Họ tàn ác lắm! Hở ra một chút là họ giết liền!” Ở miền Nam trước kia, có không biết bao nhiêu người như giáo sư Châu Tâm Luân, nhiều không thế nào kể xiết! Sau đây, xin mời bạn đọc chuyện văn sĩ nằm vùng Vũ Hạnh, một chuyện điển hình với đầy đủ chi tiết hơn.

Chuyện ông Khai Trí và nhà văn Vũ Hạnh 

Vũ Hạnh là một cán bộ văn hóa vận của Việt Cộng nằm vùng ở Sài Gòn thật lâu. Ông là một văn sĩ có tài. Tác phẩm Người Việt cao quý của ông xuất bản ở Sài Gòn và được tái bản 3 lần sau đó. Có một giai thoại thật đẹp giữa văn sĩ Vũ Hạnh và nhà xuất bản Nguyễn Hùng Trương, chủ nhân của nhà sách Khai Trí. Câu chuyện xảy ra vào khoảng cuối thập niên 60. Chuyện kể khi văn sĩ Vũ Hạnh mang bản thảo của mình đến thương lượng với nhà xuất bản Nguyễn Hùng Trương thì hai bên ưng thuận với giá 100 ngàn đồng (theo thời giá, số tiền ấy có thể mua được 5 hoặc 6 cây vàng). Nhưng đến ngày thanh toán tiền bản quyền, nhà văn nhận bao thơ, mở ra đếm thì thấy đến 120 ngàn. Nhà văn ngạc nhiên, bèn hỏi nhà xuất bản có nhầm lẫn không. Ông Nguyễn Hùng Trương, mà ai cũng gọi là ông Khai Trí, điềm nhiên trả lời: “Không, tôi không trả lộn đâu. Trước kia, chúng ta ưng với giá 100 ngàn vì tôi chưa đọc bản thảo. Nhưng sau khi đọc xong, tôi thấy giá trị của nó đến 120 ngàn, cho nên tôi phải trả đúng theo giá trị của nó”.

Thưa quý độc giả, lúc đó chúng ta đang ở vào một thời điểm của Đệ nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khoảng cuối thập niên 1960. Ông Nguyễn Hùng Trương, tức là ông Khai Trí, vui lòng và tự ý trả thêm cho văn sĩ Vũ Hạnh 20 ngàn đồng cho xứng đáng với giá trị của tác phẩm, điều quá bất ngờ cho tác giả Vũ Hạnh. Hai mươi ngàn đồng từ trên trời rơi xuống?! Không phải! Từ trái tim và khối óc của một nhà xuất bản thành công, trong một nền kinh tế thị trường thành công, và trong một chế độ dân chủ khá ổn định! Mối giao hảo giữa nhà văn và nhà xuất bản mà đẹp đến thế thì ít có nơi nào trên thế giới sánh bằng! Chúng ta đã có một nền kinh tế thị trường khá hoàn hảo và nhất là chúng ta đã có một nhà xuất bản tuyệt vời biết quý trọng các nhà văn và nền Văn học Nghệ thuật. Với nền kinh tế thị trường về sách báo đẹp như vậy, tuy chế độ dân chủ của Việt Nam Cộng hòa ở phương Nam còn non trẻ, nhưng chế độ đã cung cấp cho văn nghệ sĩ khá đầy đủ tự do và phương tiện để họ xứng đáng là Văn nghệ sĩ chân chính phục vụ Nghệ thuật chứ không phải là Văn nô bồi bút nịnh bợ Đảng để ăn lương như xã hội miền Bắc của Hồ Chí Minh.

Nhạc sĩ Xuân Tiên đem yêu thương về cho phương Bắc

Vào thời gian đó, sau hơn 10 năm định cư ở miền Nam, một triệu đồng bào miền Bắc di cư đã ổn định cuộc sống và vững vàng với sự nghiệp đã được tạo dựng lại. Tình nghĩa đồng bào đậm đà thắm thiết trên mảnh đất lành của phương Nam được nhạc sĩ Xuân Tiên cảm đề với lời ca tuyệt vời trong bản Khúc hát ân tình, bài nhạc mà ai ai cũng gọi bằng tên rất thân thương là bài Tình Bắc duyên Nam. Lời ca đẹp và hiền hòa như tấm lòng Người Mẹ chung của trăm con với tình yêu thương bao la chan hòa cho tất cả:

Người từ (là từ) phương Bắc đã qua dòng sông (sông) dài
        Tìm đến phương này, một nhà thân ái
        Ôi! Tình Bắc duyên Nam (là duyên) tình chung muônđời ta đắp xây
        Gặp nàng (nàng) là thôn nữ mắt duyên cười say
        môi hồng tình ngát đôi lòng mộng vàng chung bóng
        Ôi! Mạch đất dâng hương (là hương) cần lao chung đời vai sát vai
        Cùng góp bàn tay thương yêu nhau rồi
        Ngô khoai hai mùa ngát một niềm vui (chung vui)
        Cho thơm hương đời lúa vàng tình ơi
        Ngày mai hạnh phúc nơi nơi reo cười
        Quê hương thôi đau sầu ngăn sông cách núi
        Ta đem yêu thương về cho phương Bắc
        Ôi! Đời sống yên vui (là vui) Dìu nhau đi vào chung bóng mơ.

Lời phát biểu huênh hoang của Lê Duẩn

Nói chung, người dân miền Nam lúc đó có cuộc sống sung túc, có bát ăn bát để, và được hưởng một nền tự do dân chủ khá cao so sánh với các nước Đông Nam Á. Nhưng than ôi! Hạnh phúc không được hưởng trọn vẹn vì chiến cuộc đang leo thang gây đổ nát tang tóc khắp nơi nơi và khắp mọi nhà. Cuộc chiến trong khoảng thời gian đó, giới truyền thông Tây phương thường gọi là cuộc Chiến tranh Đông Dương thứ hai, là một cuộc chiến tranh không cần thiết, do Đảng Cộng sản gây ra để nuốt trọn miền Nam sau khi đã chiếm miền Bắc, một cuộc chiến tranh mà Tổng bí thư Lê Duẩn đã huênh hoang phát biểu (Trích Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên, trang 422): Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta!

Dân tộc hãy đọc thật kỹ lời phát biểu trên. Đúng là lời nói của kẻ đâm thuê giết mướn. Hiển nhiên là như vậy, vì đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, v.v… chứ nào có đánh cho Dân tộc đâu? Rõ ràng Lê Duẩn đã nói thế kia mà! Trong một bài nói chuyện nội bộ, Lê Duẩn đã huênh hoang như vậy và Chế Lan Viên lấy hứng làm chủ đề cho bài thơ ca ngợi hòa bình: “Hỡi những con thỏ hòa bình. Đang tìm nơi gặm cỏ. Súng ta nổ cũng là vì ngươi đó...” Than ôi! Nhà thơ đòi nổ súng giết ai để bảo vệ hòa bình?!

Trong khi Lê Duẩn tự hào về việc đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và đánh cho Trung Quốc, thì Dương Thu Hương, người nữ đảng viên một thời đã hăng say trong chiến dịch Tiếng hát át tiếng bom bên cạnh các bộ đội tiền tuyến, đã tỉnh cơn say Đảng và tàn giấc mê Hồ, để ngộ rằng đó chỉ là cuộc bắn giết giữa anh em Nam Bắc một nhà. Người nữ sĩ, mắt đẫm lệ, ngồi ở lề đường của Sài Gòn vừa được mang tên mới là thành phố Hồ Chí Minh, đã ân hận nhận ra rằng “Cuộc chiến tranh chống Mỹ là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất trong lịch sử Dân tộc”. Không ngu sao được nếu ta nhìn sang nước Phi Luật Tân láng giềng được độc lập ngày 4-7-1946. Đáng lý ra Phi Quốc phải được độc lập đúng một năm trước đó, tức là ngày 4-7-1945, theo tinh thần ước kết 10 năm trước giữa hai nước Mỹ và Phi.

Phi được độc lập đúng ngay ngày Quốc khánh của Hoa Kỳ

Nhắc lại lịch sử tranh thủ độc lập của Phi Luật Tân, trong quyển Giải thể chế độ Cộng sản, tác giả Luật sư Nguyễn Hữu Thống viết (trang 180): “Đầu thập niên 1930, Luật sư Quenzon, lãnh tụ đảng Quốc gia Phi Luật Tân đã tới Hoa Thịnh Đốn để vận động Quốc hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm 1934, Quốc hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khoản quy định rằng, 10 năm sau, đúng ngày Quốc khánh Hoa Kỳ (4-7-1945), Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập.

Tại sao Phi Quốc phải bị độc lập trễ một năm? Vì lẽ Phi còn bị quân đội Thiên hoàng Phù tang chiếm đóng cho nên Đại tướng MacArthur phải điều động quân đội Mỹ đổ bộ lên đất Phi ở điểm Lingayen, một thành phố nhỏ phía Bắc Manila, để giải phóng toàn bộ nước Phi, và trong nội địa Phi, lực lượng Quốc gia Phi còn phải thanh toán những ổ kháng cự lẻ tẻ của Nhật.

Và tại sao là ngày 4 tháng 7? Khi Hồ Chí Minh chôm chỉa lời hay ý đẹp trong bài Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ để viết bản Tuyên ngôn Độc lập của mình - chỉ để lường gạt Dân tộc Việt Nam - và tuyên đọc ở quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945, ông có biết rằng ngày 4 tháng 7 là ngày Quốc khánh của Mỹ Quốc hay không? Hồ Chí Minh có biết rằng Mỹ Quốc trao trả Độc lập cho Phi Quốc đúng vào ngày Quốc khánh của mình vì một nghĩa cử cao đẹp muốn Dân tộc Phi cũng được hạnh phúc mừng Độc lập cùng một ngày với Dân tộc Hoa Kỳ hay không? Hồ Chí Minh và Đảng có biết chăng Mỹ đã thực hiện một cuộc đổ bộ đầy đảm lược (mà cường độ về quân số tham chiến chỉ kém có cuộc đổ bộ ở miền Bắc nước Pháp) để đất nước Phi được hoàn toàn giải phóng trước khi trao trả lại cho Dân tộc Phi? Nước Phi có diễm phúc như thế là vì Phi có đảng Quốc gia chứ không phải như Việt Nam có cái đảng ăn hại và dối trá mang đủ thứ tên như đảng Cộng sản Đông Dương, hội Nghiên cứu Mác Lê, đảng Lao Động, có lúc lại giải tán đảng, rồi sau cùng khi chiếm đoạt hết cả nước mới tự nhận là đảng Cộng sản Việt Nam! Dân tộc Phi được may mắn là nhờ định hướng chính trị đúng của Luật sư Quenzon đã đến ngay Quốc hội Hoa Kỳ để tranh thủ nền tự trị và độc lập cho nước mình. Trái lại, Dân tộc Việt Nam thì quá bất hạnh vì Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian đó còn đang chăm lo học nghề làm Cộng sản với Sư phụ Stalin ở thủ đô Mạc Tư Khoa của Liên Xô!

Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản có biết chăng Phi nhận nền độc lập từ tay Mỹ mà không đổ một giọt máu, không tốn một nhân mạng? Nước Mỹ hành xử đẹp như thế đối với Phi thì Mỹ nào đâu có lòng tham, muốn xâm lăng chiếm cứ đất đai của ai, tại sao Hồ Chí Minh cứ tuyên truyền và phát động cuộc chiến tranh Chống Mỹ cứu nước sát hại và gây thương tật biết bao nhiêu triệu người cả Bắc lẫn Nam? Xử dụng đến cạn kiệt xương máu của Dân tộc để dồn cho chiến trường miền Nam, riêng tỉnh Thanh Hóa đã động viên tới 450 ngàn bộ đội, nhiều xã không còn bóng dáng thanh niên. Lê Duẩn đã quyết tâm rằng nhân dân ta dù có mặc quần xà lỏn, đốt đuốc cũng đánh Mỹ tới cùng. HCM trước khi chết cũng nhắn nhủ “các cháu của Bác” là dù có cháy cả dải Trường Sơn cũng phải chiến đấu đến cùng. Tội ác gây ra cuộc chiến tranh nầy, nếu không phải HCM, thì ai chịu trách nhiệm?

Chuyện nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Trước khi viết về Trịnh Công Sơn, chúng ta nên biết qua về hai nhạc sĩ đàn anh tài hoa là Phạm Duy và Văn Cao. Nhạc sĩ Phạm Duy tham gia kháng chiến rất sớm, ngay từ những ngày tháng đầu tiên năm 1945. Ông đã tham gia kháng chiến ở Nam Bộ, ông đã có mặt ở Liên khu 4 Thanh Nghệ Tĩnh, và có mặt ở chiến khu Việt Bắc. Ở khắp nơi ông đã trình diễn và sáng tác những bài ca nêu cao tinh thần kháng chiến chống Pháp. Đến khi ông sáng tác bài Bên cầu biên giới thì Đảng không chấp nhận và ra lịnh cho ông phải khai tử bản nhạc. Quyền tự do sáng tác bị xâm phạm, một trong những lý do khiến nhạc sĩ Phạm Duy dinh tê và sau đó vào Nam (năm 1951). Thật may cho nhạc sĩ, nhưng may mắn cho Dân tộc thì lớn lao vô cùng! Như cá gặp dòng nước trong bơi lội nhởn nhơ và hóa thành rồng, với thiên tài về nhạc, hồn nhạc trong ông bay lượn trong bầu không khí tự do của miền Nam, và với sức sáng tác phi thường, nhạc sĩ Phạm Duy đã cống hiến cho Dân tộc cả một kho tàng âm nhạc vô giá. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, đọc lại chuyện xưa, mới thấy rằng nền Tự do của VNCH ở Miền Nam vào thuở đó thật đáng quý!

Nhạc sĩ Văn Cao là tác giả bài Tiến quân ca mà Đảng Cộng sản dùng làm Quốc ca. Ông không dinh tê như nhạc sĩ Phạm Duy. Năm 1952, ông được Đảng cho đi Liên Xô tham quan như một chuyến hành hương về Đất tổ để chiêm ngưỡng XHCN của nước Cộng sản Liên Xô đàn anh. Chuyến đi làm ông thất vọng. Trở về Hà Nội, ông ngẩn ngơ như người mất hồn! Chợt đến phong trào đấu tranh Nhân văn Giai phẩm, ông bị khai trừ khỏi hội văn và hội vẽ. Ông chỉ còn ở trong hội nhạc nhờ là tác giả của bài Quốc ca nhưng cũng chỉ làm vì.

Theo nhà phê bình Văn học Nguyễn Mạnh Trinh trong bài Văn Cao, thơ của những giấc mơ, ta đọc được dòng chữ u buồn: “Suốt mấy chục năm, Văn Cao phải lặng lẽ sống âm thầm sáng tạo trong đớn đau, trong cảnh túng quẫn. Dường như ông không viết bài hát nữa mà chuyển vào những tiểu phẩm nhạc không lời “Hàng dừa xa”, “Sông tuyến”, “Biển đêm”, ông dằn lòng viết những câu thơ không in, vẽ minh họa để kiếm chút “tiền còm” bởi thúc bách của đời sống thường nhật”.Kết luận: thiên tài của nhạc sĩ Văn Cao bị mai một trong chế độ XHCN của Hồ Chí Minh!

Chợt đến thập niên 60, ngôi sao âm nhạc Trịnh Công Sơn rực sáng! Nhạc Trịnh Công Sơn sáng tác đáp đúng thị hiếu của thanh thiếu niên, nên bài nhạc nào cũng được đón nhận nồng nhiệt, nhất là những bản phản đối chiến tranh thường được gọi là nhạc phản chiến. Nhạc sĩ được tự do sáng tác, không bị Chế độ miền Nam bắt phải khai tử bản nhạc nào như trường hợp nhạc sĩ Phạm Duy phải khai tử bài Bên cầu biên giới khi sống với Đảng! Cũng vào thời điểm đó, vào khoảng tháng 9 năm 1963, trong dịp đi nghỉ mát ở Quảng Châu, Hồ Chí Minh gặp Chu Ân Lai và Trần Nghị và phát biểu về quyết tâm chiến đấu ở miền Nam như sau: “Đừng nói phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh.

Trích câu phát biểu đầy sắt máu của Hồ Chí Minh, người viết xin tri ân tác giả Minh Võ đã nghiên cứu Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử để tô vẽ thật rõ nét bộ mặt hiếu chiến hiếu sát của Hồ Chí Minh cùng sự dàn dựng bộ máy chiến tranh để tàn phá phần Đất nước ở phương Nam. Vào lúc đó, hai nước Đức Quốc và Hàn Quốc cũng bị phân chia làm hai như Việt Nam. Nhưng chính quyền Cộng sản lãnh đạo Đông Đức và Bắc Hàn không chủ trương đánh phá Tây Đức và Nam Hàn như Bắc Việt của Hồ Chí Minh đã làm! Do đó Tây Đức và Nam Hàn được thanh bình để chăm lo phát triển vùng đất của mình, và chẳng bao lâu sau, Tây Đức thành cường quốc kinh tế bậc nhất ở Âu Châu và Nam Hàn thành một trong 9 nước tân tiến đứng đầu về kỹ nghệ cơ khí. Còn Hồ Chí Minh đã làm gì? Ông đã đưa cả triệu thanh niên miền Bắc, kể cả những người “lính cái” (chữ của Dương Thu Hương), phải sanh Bắc tử Nam gây ra cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sát hại và gây thương tật hàng triệu người cả hai bên chiến tuyến!

Lãnh tụ Hồ Chí Minh là thủ phạm dàn dựng thật tỷ mỷ trọn vẹn bộ máy chiến tranh đánh chiếm Miền Nam với ý chí sắt đá “dù cho cuộc chiến dài 10 năm, 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng đánh”. Dàn dựng con cờ bù nhìn Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam chưa đủ, tên đại mưu sĩ Hồ Chí Minh còn thiết lập thêm một chính đảng bù nhìn cho Mặt trận là đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam cho trọn bộ sậu. Đúng ra Hồ Chí Minh chỉ chẻ đảng Cộng sản ra làm hai, những đảng viên ở miền Nam, ông cho hóa trang và cho mặc áo Nhân dân Cách mạng Miền Nam, thế thôi. Bởi thế cho nên tất cả những hành động phản đối chiến tranh, tuyệt thực và xuống đường đòi hòa bình, viết bài phản chiến, đặt nhạc phản chiến mà không nhắm vào thủ phạm Hồ Chí Minh, không nghiêm khắc kết tội ông, thì có khác nào là đồng lõa với ông, giúp ông đoạt được chính nghĩa mà đáng lý ra ông không có!

Cùng một ý tương tự, tác giả Sắc Không, trong Nguyệt san Làng Văn trang 101, đã viết như sau: “Miền Nam, trước 1975, những loại thơ văn nhạc “phản chiến” chỉ phản chiến được với phía tự vệ, không phản chiến với phía gây chiến. Cộng quân vẫn tiến ào ào”.

Nhân đây xin nhắc lại lời tuyên bố của Trotsky trước Nghị viện Amsterdam khoảng năm 1932 (Trích Lời giới thiệu của Vũ Huy Quang cho quyển Hồ sơ Đệ tứ tập 3, của nhóm Đệ tứ Việt Nam tại Pháp, xuất bản năm 2004, trang 15). Lời tuyên bố của Trotsky về phản chiến như sau:  “Viết bài trên báo, đi biểu tình, tuyên dương hòa bình bằng l ‎‎ý sự luân lý để chống chiến tranh… mà không biết guồng máy phát động… chỉ là những tiếng be be của bầy cừu trước con dao đồ tể”.

Những chiến sĩ của Quân lực VNCH đem xương máu ngăn chận Làn sóng đỏ để bảo vệ tự do, dân chủ, và nhân quyền cho miền đất đẹp ở phương Nam tất nhiên không mấy hài lòng về tính chất phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn! Tuy nhiên, nhạc của ông hay vô cùng!

Cần viết thêm rằng sau khi Đảng chiếm đoạt miền Nam, Đảng ra lịnh cấm không cho hát bài Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn, cùng với vô số bài nhạc khác của các nhạc sĩ miền Nam! Một hành động thật hạ cấp vô văn hóa và ngu xuẩn chỉ để cho Dân tộc thương tiếc ngẩn ngơ khoảng thời gian vàng son khi không có Đảng! Khi Đảng ra đời, thì Dân tộc mất tất cả!

Từ Paris Võ Văn Ái nhận xét

Từ nguồn Gió-o, bài phỏng vấn nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, lãnh tụ trí thức đấu tranh Nhân quyền số một ở hải ngoại, do Lê Thị Huệ thực hiện ngày 1-11-2009:

Lê Thị Huệ: Ông có thể khai triển rõ hơn về phe phản chiến do Liên Xô điều động?

Võ Văn Ái: Trong thế giới có phong trào này phong trào kia phát động. Nhìn từ bên ngoài là sự tự phát, nhưng từ cơ bản đa số do các khuynh hướng chính trị hay đảng phái giật dây. Phong trào phản chiến hay phong trào hòa bình hồi đó cũng vậy. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam thời ấy, Hà Nội được Mạc Tư Khoa hậu thuẫn, nên Liên Xô thông qua các đảng địa phương ở Âu Châu phát động rầm rộ một phong trào rộng lớn ủng hộ cho “Hòa bình Việt Nam”. Nói là hòa bình Việt Nam, nhưng kỳ thực là ủng hộ cuộc chiến tranh do Hà Nội chủ súy. Phe Cộng sản quốc tế bỏ tiền mua các cơ quan truyền thông, báo chí, kích động các phong trào quần chúng, đặc biệt giới sinh viên đại học xuống đường kêu gọi “Hòa bình Chống Mỹ.

Vung mã tấu chặt ngón tay em học sinh nhỏ nhất

Vào một ngày trong niên học 1961-1962, trong địa hạt tỉnh An Xuyên, “Việt Cộng đã chận các em học sinh đang đi đến trường, chọn một em nhỏ nhất trong nhóm rồi vung mã tấu chặt đứt một ngón tay của em và hăm dọa nếu còn tiếp tục đến trường thì các em sẽ chịu hình phạt như thế!”(Trích bài Liên Hoa của tác giả Phan Thịnh, Nguyệt san Làng Văn số 203 tháng 7-2000, trang 26).

Nhóm Việt Cộng đó muốn gì? Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam muốn gì? Lúc đó Hồ Chí Minh ở Bắc Bộ phủ muốn gì? Tại sao lại lựa em bé nhỏ nhất để chặt ngón tay? Tại sao lại cấm học sinh đi học? Nếu thật tâm vì chính nghĩa cao đẹp Giải phóng Miền Nam khỏi ách kềm kẹp của Mỹ Ngụy thì tại sao Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản lại xử dụng phương cách hèn hạ tàn nhẫn đối với trẻ thơ như vậy? Với những câu hỏi Tại sao? dồn dập như trên, câu trả lời chỉ có thể là Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã chiếm đoạt được miền Bắc rồi, không lo xây dựng phát triển miền Bắc, mà chỉ lo tiếp tục gây chiến để cướp đoạt miền Nam cho kỳ được, không từ nan bất cứ hành động khủng bố đê hèn nào! Tác giả Phan Thịnh kể thêm rằng: “Toàn tỉnh An Xuyên, số học sinh bị sút giảm 20.000 em, 150 trường học phải đóng cửa, khoảng hơn 60 giáo viên bị bắt cóc hoặc bị giết! Trong niên học đó, trên toàn lãnh thổ miền Nam đã có đến 630 trường học phải đóng cửa vì sách lược khủng bố này”.

Sách lược khủng bố giáo viên và học sinh kể trên gây những hậu quả thảm khốc như thế, đến nỗi Hiệp hội các Tổ chức Sư phạm Thế giới (World Confederation of Organizations of the Teaching Profession) đã phải cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam để điều tra. Bài viết của ký giả John B. Hubbell tường trình sự việc trên được đăng tải trên Reader’s Digest (số tháng 11-1968) và thành đề tài cho Phan Thịnh viết bài Liên Hoa nói trên.

Chặt hai bàn tay em bé 7 tuổi

Cũng từ bài viết đăng trên số Reader’s Digest đó của k ‎‎ý giả John B. Hubbell, bài được Trung tướng TQLC Lewis Walt giới thiệu, chúng ta đọc thêm được tội ác kinh hoàng của Việt Cộng như sau (Bài do anh Thuận một độc giả ở Queensland gởi Diễn đàn độc giả của Tuần báo Saigon Times ngày 28-10-2004):

Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng, vì một trong các đứa con của họ, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày rồi. Họ tìm đến Trung tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị VC bắt cóc.”

“Rồi đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó vội chạy ra, ôm nó vào lòng, và đau xót kinh hoàng khi thấy cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ nó có đeo một cái bảng, ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó.”

Thì ra VC muốn phá bỏ kỳ bầu cử sắp sửa diễn ra của VNCH nên mới cảnh cáo ông xã trưởng, hay bất kỳ người nào trong làng, cả gan đi bỏ phiếu, ông sẽ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta.

Ném lựu đạn vào đêm lửa trại học sinh Qui Nhơn

Vào một đêm năm 1972, tại sân vận động Qui Nhơn, trong khi học sinh và hướng đạo sinh trường trung học Cường Để đang vui vầy với lửa trại thì tên Việt Cộng nằm vùng là Vũ Hoàng Hà quăng lựu đạn vào đám lửa trại để tàn sát những học sinh và nhà giáo trong tay không một tấc sắt! Cuộc thảm sát gây 14 học sinh bị mất mạng và một số bị thương. Cô giáo sư Pháp văn Đặng Thị Bạch Yến, có giọng ca thật điêu luyện như ca sĩ chuyên nghiệp, đến để vui lửa trại với các em trại sinh, bị chết ngay tức khắc. Cô chết đi tuổi chỉ vừa 30, để lại ba đứa con 4 tuổi, 2 tuổi và 1 tuổi mồ côi mẹ. Chồng cô là Giáo sư Anh văn Tạ Quang Khánh bị thương nặng. Khi xe cứu thương đến, ông chân bước lên xe, tay ôm mớ ruột bị lòi ra ngoài, thân mang đầy vết lựu đạn!

Một nhân chứng cho biết thủ phạm Vũ Hoàng Hà leo qua nấp ở chùa Long Khánh và được cơ sở nằm vùng của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đưa vào mật khu lẩn trốn. Sau khi chiến thắng miền Nam, Vũ Hoàng Hà được phong Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định kiêm Ủy viên Trung ương Đảng. Mãi sau này, các báo Việt Cộng đổ vấy rằng vụ thảm sát đó là do nhóm Fulro của Đồng bào Thượng gây ra!

Ba đứa trẻ mồ côi mẹ năm 1972, thì chỉ 5 năm sau lại mang tang cha. Vết thương quá nặng, Giáo sư Tạ Quang Khánh không sống sót được 10 năm theo lời dự đoán của các Bác sĩ điều trị! Nhưng trời cao có mắt. Câu chuyện có hậu. Ba đứa trẻ mồ côi vì sự tàn ác của Việt Cộng năm nào thì bây giờ trở thành những công dân tốt phục vụ cho một xã hội đầy tình người đã giúp đỡ và cưu mang chúng. Tạ Quang Khôi và Tạ Quang Khiêm là kỹ sư điện (EE) và cô em út trong nhà là Tạ Thị Ngân Hà, bị mồ côi mẹ lúc 1 tuổi, trở thành bác sĩ nội khoa phục vụ tại bệnh viện Oklahoma, Hoa Kỳ. Câu chuyện do Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng tường thuật, ông là bạn học tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế đồng khóa với vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Khánh (Theo nguồn tin: Vietnam Library Net).

Pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy

Ngày 9-3-1973, một ngày đầy máu và nước mắt đến với trường tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường. Thủ phạm là Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã dùng súng cối 82 ly, do Trung Cộng sản xuất, bắn vào trường vào lúc 12g55’. Số thương vong theo Tướng Lâm Quang Thi trong quyển The death of South Vietnam: an autopsy (xuất bản năm 1986) là 34 em chết và 70 bị thương, theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: 32 tử vong và 55 bị thương.
Cuộc thảm sát ở Cai lậy gây thương cảm khắp nơi. Khắp miền Nam, lễ tưởng niệm và lạc quyên được tổ chức để an ủi và giúp đỡ gia đình bị nạn. Nhạc sĩ Anh Bằng viết bài nhạc khóc các em học sinh Cai Lậy có những câu như sau: “Hỡi Bé thơ ơi, sao tội tình gì Em lại bỏ đi, Em lại bỏ đi? Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp. Bạn bè cùng ngồi chăm chỉ lắng nghe. Sao Em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi?

Tội ác bỏ đói dân để lùa thanh niên vào bộ đội

Câu chuyện giữa 2 người tù, một già một trẻ, do Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện thuật lại trong quyển Hỏa Lò (trang 277). Người tù trẻ thuộc thế hệ thiếu nhi sống dưới chế độ hộ khẩu của Hồ Chí Minh. Quê anh ở Thái Bình, mang tiếng là vựa thóc, là “Quê hương năm tấn”, nhưng đói lắm. Bình quân, mỗi đầu người hàng tháng chỉ được 9 cân gạo, nên anh ta bị đói từ lúc còn bé. Đến 17 tuổi, anh phải khai man thành 18 để được vào bộ đội. Cuộc đối thoại như sau:

- Thế mày trúng tuyển bộ đội ngay?
- Vâng, được biết trúng tuyển, con mừng hơn mẹ con sống lại. Thế là hết cảnh đói mòn, đói mỏi. Mấy đứa gầy yếu quá bị loại, buồn như cha chết. Có đứa khóc.
- Hồi đó, chúng mày có biết đi B, chết rất nhiều không?
- Chúng con biết chứ. Trai làng bao đứa đã vong mạng. Hai thằng em họ con cũng đã chết ở Khe Sanh.
- Chúng mày không sợ chết à?
- Chẳng đứa nào sợ cả. Cái đói triền miên đáng sợ hơn nhiều. Bố bảo, đi bộ đội, chết chưa thấy đâu, đã thấy no trước mắt. Hai mốt cân gạo, một cân rưỡi thịt, một cân đường, mỗi tháng. Nghe trên thông báo tiêu chuẩn đó, chúng con thèm rỏ rớt, rỏ dãi. Cứ như là giấc mơ ấy. Chiến đấu dũng cảm được thăng chức lên sĩ quan. Tiêu chuẩn còn cao hơn nữa. Hơn đi thanh niên xung phong nhiều.

Thiên đường XHCN của Hồ Chí Minh rất cần được đối chiếu với đời sống công nhân trong các nước tư bản mà Cộng sản luôn luôn mạt sát là bóc lột công nhân. Không cần đi đâu cho xa, bên nước láng giềng Campuchia, tác giả Nguyễn Văn Khậy trong quyển Kampuchia trong bối cảnh chiến tranh Đông Dương đãdiễn tả cảnh sống sung túc của công nhân đồn điền cao su Krek sau năm 1945, khi Đồng Minh thắng Nhật và người chủ Pháp bị Nhật giam trước đây được thả về để cai quản đồn điền. Tác giả Nguyễn Văn Khậy viết (trang 361 sđd):

Từ đây cách đối xử với công nhân có chiều tiến bộ hơn so với những năm về trước. Đầu tiên, công nhân được giảm bớt 1/3 số cây cao su được cạo trong ngày, tăng lương, nhà thương có bác sỹ với thuốc men đầy đủ, chăm sóc kỹ lưỡng. Lương tiền phát đầy đủ hơn, nhất là đồn điền phụ trách bán các thứ vải, giày, xe đạp, vỏ xe đạp… thêm vào đó thực phẩm, thịt heo, thịt bò và vô số nhu yếu khác, bán chịu, bán thiếu cho công nhân được khấu trừ vào lương cuối tháng, giá rẻ hơn ngoài thị trường 30%. Đặc biệt cung cấp gạo hoàn toàn miễn phí cho công nhân kể cả gia đình theo tiêu chuẩn người lớn 800 gr, trẻ em dưới 12 tuổi là 600 gr.

Đến đây, người viết có thắc mắc mới điện thoạihỏitác giả Nguyễn Văn Khậy (hiện an cư lập nghiệp ở Sydney) nếu người công nhân có vợ và nhiều con thì sao? Tác giả trả lời rằng:“Vợ và tất cả các con đều có tiêu chuẩn được phát gạo miễn phí, và thường thì công nhân dư gạo, mới đem số gạo dư ra ngoài đồn điền bán lại hoặc trao đổi lấy các món khác với người dân địa phương.

Những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ

Lần giở lại những trang Hồi kýcủa nhạc sĩ Phạm Duy, người đã dinh tê về Hà Nội và sau đó vào Nam năm 1951, tức là 3 năm trước phong trào Di cư, nhà soạn nhạc tài ba ấy khi di tản ra nước ngoài mới tỏ ý hối tiếc rằng đã không hề trước tác một bài nhạc nào để ca ngợi thành phố Sài Gòn, nơi ông sống những ngày phong phú nhất đời ông. Xin trích Hồi ký Phạm Duy, thời phân chia Quốc Cộng(tr.399):

Hơn 20 năm sống ở Sài Gòn mà tôi không có một tiếng hát nào cho thành phố nơi tôi sống những ngày phong phú nhất đời mình. Sài Gòn không phải chỉ có con đường Duy Tân cây dài bóng mát để tôi đưa người tình đi học. Tuy cũng có Y Vân “Ghé bến Sài Gòn” để thấy Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi... Và có thêm Hoàng Anh Tuấn cùng với Phạm Đình Chương nhìn mưa Sài Gòn để nhớ tới mưa Hà Nội (bản “Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội”)... nhưng nói chung, lũ nhạc sĩ chúng tôi rất vô ơn đối với Sài Gòn.”

Thật vậy, thành phố Sài Gòn đáng được ca ngợi! Sài Gòn ngày xưa vừa đẹp lại hiền! Miền Nam trù phú và đầy tình người là mảnh đất lành đáng sống thật! Và nhạc sĩ Phạm Duy lại viết tiếp lời an ủi: “Phải bỏ xứ ra đi, phải sống trong thành phố bị đổi tên, rồi mới hối hận để có khá nhiều nhạc sĩ lưu vong hay ở trong nước hối hả soạn ra sau ngày 30-4-75 những bài như “Sài Gòn ơi vĩnh biệt”, “Sài Gòn bây giờ buồn không em”, “Sài Gòn vĩnh biệt tình ta”, “Sài Gòn niềm nhớ không tên”, “Sài Gòn của tôi”, “Sài Gòn ôi thôi đã hết”… Con người là thế đó, có viên ngọc trong tay không biết giữ, mất rồi mới tiếc ngẩn tiếc ngơ!

Và những ngày tháng năm từ khi Cựu hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh năm 1949 với danh vị Quốc trưởng, qua Đệ nhất Cộng hòa với Tổng thống Ngô Đình Diệm, và Đệ nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cho đến ngày Quốc hận 30-4-1975, trong khoảng thời gian đó, chúng ta đếm được những ngày tháng năm đẹp nhất và đáng sống nhất của thế kỷ 20!

Chỉ riêng về môn túc cầu, những người ái mộ hẳn rất tự hào với thành tích của đội tuyển nhà trước 1975. Theo lời cựu tuyển thủ Nguyễn Văn Ngôn tức Ngôn 1 trả lời biên tập viên SS của tuần báo Sức sống tại Little Saigon (Số Xuân Tân Mùi 1991): “Nền túc cầu Việt Nam lớn mạnh nhứt vào năm 1964. Tôi còn nhớ, trong giải túc cầu thế giới Đội tuyển VN đã hạ đội Do Thái 2-0 tại Tel Aviv ở vòng loại. Và đến năm 1968 tại Thái Lan, tranh giải khu vực để đại diện Á Châu tham dự Thế vận hội, Đội tuyển VN đã hạ các nước Thái Lan, Đại Hàn, Mã Lai, Nam Dương. Rất tiếc, cũng năm đó vì tình trạng chiến tranh (Tết Mậu Thân) đã làm hỏng cơ hội tham dự Giải Thế vận tại Iran của đoàn tuyển thủ VN (sau đó đội Đại Hàn đứng thứ nhì bảng thay thế). Một thành tích khác cũng lừng lẫy là đoàn cầu VN đã mang về chiếc cúp vô địch Á Châu tranh tại Mã Lai: Đó là giải Merdeka 1966.

Việt Nam 50 năm trước và 50 năm sau 

Không phải như những báo cáo láo của Việt Cộng theo như nhận xét “3 chữ D: Dại Dốt Dối” của Giáo sư Phạm Thiều, bản thống kê về tình trạng kinh tế của Việt Nam 50 năm trước và 50 năm sau do học giả Đỗ Thông Minh ở Nhật sưu tầm (từ Economic Bulletin / Singapore ngày 14-4-2007 trang 738) đã trưng dẫn rất chính xác sự huy hoàng về kinh tế của miền đất phương Nam vào thời Đệ nhất Cộng hòa so sách với 35 năm sau dưới chế độ XHCN. Bản thống kê về Lợi tức Đầu người trong 50 năm qua như sau:

Năm 1956                    Năm 2006
Nhật                 215 đô                         30.000 đô
Đài Loan          121                              12.000
Mã Lai              246                              4.520
Thái Lan              64                                2.450
Indonesia             87                                1.150
Nam Việt Nam      144           Việt Nam    550

Bản thống kê nói lên sự phát triển kinh tế quá chậm theo kiểu kinh tế thị trường với định hướng XHCN của Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa của miền Nam hơn nhiều nước. Đến năm 2006, dưới sự điều hành của Đảng, CHXHCN Việt Nam đứng hạng chót và thua xa các nước lân bang. Than ôi! Thành tích của những Đỉnh cao Trí tuệ Loài người!

Gần đây nhất, nhân ngày 30-4-2008, từ Paris, Bùi Tín viết bài Giải phóng ư? Độc lập ư? Bài viết ngắn, lời văn tâm tình thật cảm động, Bùi Tín đã thật sự bước vào cuộc Đại đoàn viên của Dân tộc và trong tình thương yêu bao la đó, ông thốt lên những lời kêu gọi chân tình:

“Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào Dinh Độc lập sớm, xế trưa ngày 30-4, vớ vẩn lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết.

“Để làm gì cơ chứ? Để đất nước ra nông nổi này ư ? Độc lập, KHÔNG! Tự do, KHÔNG! Chủ quyền, KHÔNG! Về mặt nào Việt Nam cũng đứng dưới 100 nước khác!

“30 tháng 4 năm nay, tự thâm tâm, tôi chỉ có một lời kêu gọi với các bạn bè và đồng chí cũ của tôi, hãy qu ý trọng lòng yêu nước thương dân của chính mình. Bạn hãy tự phục hồi lòng yêu nước thương dân trọn vẹn của mình để cùng mọi người Việt Nam tỉnh táo và tử tế tranh đấu cho một Tổ quốc Việt Nam thật sự độc lập, thật sự tự do, dựa vững vào Lịch sử Dân tộc và Thời đại”. 

Miền Nam tiến thật xa trên lộ trình xây dựng dân chủ

Vào cuối thập niên 60, với sự điều hợp của Giáo sư Nguyễn Văn Bông cùng một số Dân biểu Hạ viện, Miền Nam đã thiết lập được Dự thảo Quy chế Đối lập. Đây là cái mốc thật quan trọng trên lộ trình xây dựng dân chủ Miền Nam đã đạt được. Một điểm son rực rỡ đáng được ghi vào lịch sử Dân tộc, nhất là vào lúc đó Miền Bắc tung hết sức mạnh quân sự và tuyên truyền để đánh chiếm Miền Nam cho kỳ được, không từ nan bất cứ một hành động khủng bố và tuyên truyền xảo quyệt nào. Xin mở ngoặc để viết đôi dòng về Giáo sư Nguyễn Văn Bông. Ông sinh năm 1929 tại làng Kiểng Phước thuộc miền duyên hải của tỉnh Gò Công ngày xưa. Ông nội làm nghề thợ bạc, cha làm thợ sửa xe đạp. Ông nhà nghèo nhưng may mắn nhận được học bổng để học trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ. Rồi ông sang Pháp du học bằng vé tàu hạng chót nằm dưới boong tàu. Đến Pháp, ông vừa làm vừa học, lần lược đậu Tú tài, Cử nhân, và đến năm 1960 ông đậu Tiến sĩ Luật khoa. Ba năm sau, Nguyễn Văn Bông tạo thành tích trong lịch sử sinh viên du học vang danh là người Việt Nam đầu tiên đậu bằng thạc sĩ Công pháp Quốc tế. Ông được mời về nước dạy tại Đại học Luật khoa. Đến 1964, ông được cử vào chức Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh. Ông đã góp phần rất lớn trong việc đào tạo một thế hệ cán bộ hành chánh tài ba cho Đất nước. Chế độ Miền Nam, với Dự thảo Quy chế Đối lập, đã tiến thật xa trên lộ trình xây dựng dân chủ.

Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người chiến sĩ tài ba xây dựng dân chủ cho Dân tộc, đáng buồn thay, đảng Cộng sản lại xem là kẻ thù cần phải tiêu diệt! Chúng đã âm mưu sát hại Giáo sư 3 lần, đến lần thứ ba mới thành công! Ngày 10-11-1971, lúc 12 giờ trưa, Giáo sư bị Việt Cộng giết bằng chất nổ quăng vào dưới xe của ông khi ông đang trên đường từ Học viện về nhà. Ngọn lửa thiêng Dân tộc được thắp sáng từ thời Trưng Triệu xa xưa tạo thành Hồn thiêng Sông núi, từ nay với anh linh của Giáo sư Nguyễn Văn Bông hòa nhập vào, xin hãy soi đường dẫn lối cho du sinh Việt Nam học thành tài về nước xây dựng nền dân chủ tiến bộ và tránh xa chế độ Cộng sản độc tài sở trường dùng khủng bố giết người bịt miệng để cai trị. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, đảng Cộng sản vẫn còn lúng ta lúng túng với chế độ độc tài đảng trị không chấp nhận đối lập, làm chủ tất cả các báo và đài để giết tự do ngôn luận, thành lập Giáo hội Quốc doanh để giết tự do tín ngưỡng, thành lập Nghiệp đoàn Quốc doanh đứng về phía Tư bản nước ngoài để bóc lột công nhân Việt Nam… Bức màn sắt, Bức màn tre, Bức tường ô nhục Bá Linh vang bóng một thời xa xưa thì nay đã bị dẹp bỏ và vất vào sọt rác lịch sử rồi. Nhưng Bắc Bộ phủ của đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược chiều lịch sử, lại thiết lập Bức tường lửa để ngăn chận thông tin điện tử từ thế giới bên ngoài, và buông thả công an đi khắp nơi để đàn áp Dân tộc vô cùng thô bạo! Cứ mãi bịt mắt, bịt tai, bịt miệng Dân tộc mà cứ tự đề cao là “Cách mạng”!

Tình người của miền đất Phương Nam

Người cán bộ văn hoá vận Vũ Hạnh của đảng Cộng sản đã có phúc duyên được sống để nằm vùng trọn vẹn ở miền Nam trong những ngày tháng năm đẹp đó. Xin nhắc lại đôi dòng về Vũ Hạnh. Nhà văn sinh năm 1926 tại Thăng Bình, Đà Nẵng, theo Cộng sản từ năm 1945, sau hiệp định Genève, ông được phân công nằm vùng ở miền Nam. Ông là tác giả nhiều tác phẩm nghiên cứu như Đọc lại truyện Kiều, Tìm hiểu Văn nghệ, truyện dài Chất ngọc, Cú đấm, vân vân... nhưng nổi tiếng nhất là quyển Người Việt cao quý ẩn dưới bút danh A. Pazzi. Nhiều lần bị chế độ Sài Gòn bắt bỏ tù vì chống lại bằng tác phẩm và hành động. Tuy vậy, Vũ Hạnh cũng được nhiều người giúp đỡ và bảo lãnh như các linh mục Chân Tín và Thanh Lãng. Cả đến văn thi sĩ Hà Thượng Nhân, tức là trung tá Phạm Xuân Ninh, lúc phụ trách ngành tâm lý chiến về các lãnh vực Chính huấn, Phát thanh và Báo chí cũng vì tấm lòng thơ mà tế độ nhiều lần cho Vũ Hạnh. Trong quyển Quê hương bạn hữu tù đầycủa Trần Dạ Từ, chúng ta được biết thêm về Vũ Hạnh như sau:

Vũ Hạnh thời trước, viết phê bình văn nghệ cho báo Bách Khoa theo lối hiện thực xã hội kiểu Cộng sản, rồi nằm trong tờ Điện Tín của nhóm Lý Quý Chung, chuyên viết những chuyện kháng chiến đường rừng. Báo Sống của anh Chu Tử có hồi chỉ đích danh Vũ Hạnh là Cộng sản nằm vùng.”

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17

@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:

facebook

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site