lịch sử việt nam

Trang Chính

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu-Nhật-Tân:

Blog Cu-Làng-Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tư-Tưởng Phật-Giáo:

Tưởng-Niệm 50 Năm Anh-Hùng Ngô-Đình-Diệm, Anh-Hùng Ngô-Đình-Nhu Vị-Quốc Vong-Thân 1963-2013:

Tưởng-Niệm 50 Năm Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức Tự-Thiêu 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Văn-Hóa Tộc Việt:

Weblinks:

 

 

Lịch-Sử Việt-Nam Cận Đại

- Cuộc Chiến Tranh Hồ chí minh Đánh Dân Tộc Việt Nam Tập 2 -

lịch sử việt nam, tem thư việt nam

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17

Nhóm Tâm Việt Úc Châu Biên Khảo

(tái bản có sửa chữa)

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010

MỤC LỤC

CHƯƠNG 4
CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH (tt)           trang 05

CHƯƠNG 5
NHỮNG CÂY NGƯỜI HỒ CHÍ MINH TRỒNG         22

CHƯƠNG 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH                                       50     

CHƯƠNG 7
HỒ CHÍ MINH, CON VẸT CỦA STALIN                   80

++++++++++++++++++++++

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010

Tấm biển chỉ đường của trí tuệ

Câu chuyện công an giả làm dân chửi nhà thơ Bùi Minh Quốc trên đây được trích từ Thư ngỏ gửi cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, của Hà Sĩ Phu tức là phó Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ viết ngày 10-12-2005 và đăng ở Thư Nhà số 28, tháng 11&tháng 12 năm 2005. Với bút danh Hà Sĩ Phu, Nguyễn Xuân Tụ đã viết nhiều bài bình luận rất nổi tiếng phê phán chủ nghĩa Mác-Lê và chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam như Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ (1988), Đôi điều suy nghĩ của một công dân (1993), Chia tay ý thức hệ (1995)... Vì những bài viết đó, Hà Sĩ Phu đã bị Đảng trù dập bằng đủ các cách: tổ chức đụng xe để giựt xách tay, bị kết tội ăn cắp tài liệu bí mật của Nhà Nước, bị giam 8 tháng không xét xử, và sau cùng bị ở tù 2 năm tại nhà tức là bị quản chế hành chánh theo NĐ 31/CP do ông Võ Văn Kiệt ban hành.

Nhân đọc bài Qua Đà Lạt, thêm nhớ Trạng Quỳnh của tác giả H.N.D. (Nguyệt san Tin Nhà số 29 tháng Tám 1997), người viết xin đáp ứng bằng câu chuyện Tấm biển chỉ đường của Đảng sau đây.

Kiểm điểm các cách hành xử theo luật rừng của Đảng đối với Nguyễn Xuân Tụ, một công dân trí thức ưu tư về tiền đồ của Dân tộc và muốn đóng góp ý kiến để xây dựng Đất nước, Nguyễn Xuân Tụ còn bị một đòn đánh trả của Đảng hết sức ấu trĩ, trình độ lớp một lớp hai trường làng, theo lối Mày chửi tao thì tao chửi ông chửi cha mầy, hoặc theo lối Hàng tôm nguýt hàng cá. Vì ông đã viết bài Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ, vì Đảng không chấp nhận Tấm biển chỉ đường của trí tuệ đó, cho nên Đảng đã làm một tấm biển chỉ đường khác để trả đủa. Tấm biển chỉ đường của đảng chữ màu đỏ trên nền trắng được đặt ở ngay cổng vào khu chúng cư của Hà Sĩ Phu ở Đà Lạt. Bạn bè của nhà phó Tiến sĩ Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ đến thăm ông đều được Đảng chỉ đúng nhà của ông bằng những dòng chữ đỏ màu máu như sau: Cảnh giác phát hiện và cương quyết đấu tranh vạch mặt phần tử chống phá công cuộc xây dựng và phát triển Đất nước

Lời bàn: Đối chiếu hai tấm biển chỉ đường trên đây, hiển nhiên THIỆN ÁC đôi đàng tương phân rõ rệt. Dân tộc biết ngay bên THIỆN là người mang hoài bão xây dựng và phát triển Đất nước, người muốn đưa Đất nước đi lên theo sự hướng dẫn của trí tuệ. Còn phần tử ÁC, vì túi tham không đáy cố bám vào chức vị, nên đã chống phá công cuộc xây dựng và phát triển Đất nước. Và chúng càng CÙNG HUNG CỰC ÁC vì đã huy động trọn cả bạo lực của công an để đàn áp Dân tộc và trọn cả truyền thông của báo và đài để xuyên tạc những thành tâm thiện chí của những người yêu nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam giữ đúng truyền thống độc quyền yêu nước và độc quyền quản trị Đất nước theo cách riêng của mình. Ngày xưa, vì độc quyền yêu nước dối trá nên đang tâm sát hại biết bao nhiêu người yêu nước chân thật. Ngày nay, vì độc quyền quản trị Đất nước nên đã sinh ra biết bao nhiêu là giòi bọ đục khoét ngân quỹ và tài nguyên của Đất nước. Vì cai trị bằng công an, vì dùng công an để bảo vệ chế độ, nên công an lộng hành tự cho mình như vua chúa ngày xưa toàn quyền sinh sát trong tay.

Tên công an số một của Hồ Chí Minh

Hãy xem thủ đoạn và miệng lưỡi của tên Công an số một của Hồ Chí Minh, tức là Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn. Trong đời làm bộ trưởng công an dài 27 năm, từ 1953 đến 1980, Trần Quốc Hoàn là tay được Hồ Chí Minh đào tạo và tín nhiệm, nên hắn được Bác giao nhiệm vụ thủ tiêu cô Nông Thị Xuân. Nhưng trước đó, Bác giao cho hắn nhiệm vụ lo việc ăn ở cho cô và việc chuyên chở cô vào Phủ Chủ tịch mỗi khi Bác có nhu cầu. Cô gái người Nùng xinh đẹp và bất hạnh tên Xuân có diễm phúc được Bác Hồ yêu đương trong tình nghĩa gối chăn và sanh cho Bác một đứa con trai mà Bác đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Nhưng vì ngây thơ non dại nên cô Xuân mới xin Bác nhìn nhận mình là vợ chính thức. Hồ Chí Minh lếu láo bảo cô Xuân rằng: “Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được, nên phải chờ một thời gian nữa”. Cô Xuân tin lời Bác nên chờ một thời gian nữa. Cô chờ không lâu, chờ cho đến khi bị Trần Quốc Hoàn hiếp dâm, đập đầu cô chết, rồi quăng xác ra đường cho xe cán.

Người Việt Nam ai cũng có biết qua truyện Kiều, không nhiều thì ít. Người biết nhiều có khi thuộc lòng cả truyện gồm mấy ngàn câu. Ai biết ít thì cũng biết nhân vật SỞ KHANH trong truyện là người đáng nguyền rủa vì đã lường gạt cô Kiều. Do đó, cái tên sở khanh đã trở thành danh từ thông dụng để gọi bọn đàn ông lưu manh chuyên lường gạt các thiếu nữ ngây thơ trong trắng. Trong truyện Kiều, nhân vật Sở Khanh chỉ tuân theo mưu kế của Tú bà dụ dỗ nàng Kiều đi theo mình xây tổ uyên ương để rồi lọt vào bẫy của Tú bà. Vì thế, Thúy Kiều bị Tú bà bắt lại và bị ép làm gái mãi dâm. Tội của Sở Khanh với nàng Kiều chỉ là vậy. Còn tội của Hồ Chí Minh đối với cô Xuân thì thế nào, xin để cho quý bạn trẻ thẩm xét. Nhưng vì Bác là Cha già Dân tộc mà để Bác mang tiếng là sở khanh thì coi không được. Vậy quý bạn cố làm sao cho Bác khỏi mang tiếng sở khanh thì cứ làm! Bởi lẽ nếu để Bác mang tiếng là sở khanh, thì

Bác còn tàn nhẫn và đáng nguyền rủa hơn Sở Khanh trong truyện Kiều gấp trăm gấp nghìn lần!

Chuyện án mạng của cô Xuân được Nguyễn Minh Cần tường thuật thật đầy đủ trong quyển Công lý đòi hỏi. Đây chỉ xin trích lời ăn tiếng nói của Trần Quốc Hoàn khi hắn hiếp dâm cô. Chuyện kể: Hoàn bước nhè nhẹ lên gác, nhếch mép cười một cách xỏ lá, rồi ôm ghì lấy cô Xuân và hôn cô. Cô Xuân xô Hoàn ra và nói: “Không được hỗn ! Tôi là vợ ông Chủ tịch nước. Trần Quốc Hoàn cười một cách nhạo báng và nói: “Tôi biết bà to lắm, nhưng bà phải biết sinh mệnh bà nằm trong tay tôi. Rồi hắn lại nói tiếp, đoạn này vô cùng quan trọng, xin Dân tộc Việt Nam lắng nghe cho rõ lời nói của Trần Quốc Hoàn, tên Bộ trưởng Công an đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước khi hắn hiếp dâm cô Xuân, hắn nói: Sinh mệnh tất cả Dân tộc Việt Nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt bỏ tù, thủ tiêu đứa nào, tùy ý. Và tôi nói cho bà biết : ông cụ già nhà bà cũng không ngoài tay vói của tôi.

Lời phát biểu của Trần Quốc Hoàn trước khi hiếp dâm cô Xuân rất đáng được các sử gia tương lai đào sâu và nghiên cứu. Còn “phong cách” tên bộ trưởng công an thỏa mãn thú tánh và diễn tiến cuộc hiếp dâm dã man thế nào, xin các bạn tìm đọc thêm trong quyển Công lý đòi hỏi của tác giả Nguyễn Minh Cần.

Bùi Tín cập nhật hóa truyện dài Công an

Vụ hiếp dâm ô nhục đó xảy ra vào khoảng tháng 2 năm 1957, đến nay 50 năm đã trôi qua. Tiếp nối theo truyền thống của Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn, hai, ba thế hệ công an hậu duệ sau đó đã tàn phá và biến dải giang sơn gấm vóc Việt Nam thành Nhà tù khổng lồĐịa ngục trần gian. Để cập nhật hóa truyện dài công an, xin trích một đoạn ngắn trong bài Cuộc sát hạch gay go của nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền Bùi Tín, viết từ Paris, Pháp Quốc, ngày 20-1-2007. Bùi Tín viết: “Cho đến hiện nay, dưới sự cai trị của đảng CS, mới có những chuyện kỳ quái là viên cựu sỹ quan công an ở tỉnh Hòa Bình nhét cứt lợn vào mồm người ở là cô Nguyễn Thị Thương, Luật sư Bùi Kim Thành bị công an trói và đưa vào bệnh viện tâm thần dù bà vẫn minh mẫn bênh người dân oan, hay thiếu tá công an ác ôn Võ Thị Hiền ở Plây-ku ra lệnh cởi truồng Mục sư Nguyễn Công Chính và đánh hiểm vào hạ bộ ông”.

Bùi Tín tường thuật 3 kỳ công kỳ cục của công an và nói lên tiếng nói bất mãn của mình đồng thuận với Dân tộc: “Chúng ta, toàn dân ta, mọi người thật lòng yêu nước thương dân phải cùng kêu lên: đảng quyền kiểu Stalin và Mao 61 năm, quá đủ rồi! Tôi không hề bất mãn cá nhân, không hề muốn gây loạn, nhưng lương tâm con người đòi hỏi phải thét lên như thế. Ai là người Việt mà không phẫn nộ trước những sự việc bất nhân tàn bạo đến vậy”.

Bầy ác thú của Hồ Chí Minh

Khổ nạn của Mục sư Nguyễn Công Chính trong ngày 24-9-2004 được Cơ quan Human Rights Watch tố cáo (ngày 21-10-2004) trước Tòa án Lương tâm Nhân loại như sau: “Gần đây vào sáng 24 tháng 9 vừa qua, hơn 200 cảnh sát vũ trang thuộc đơn vị 113 của Việt Nam đã đột nhập bất ngờ tấn công nhà thờ và nơi ở của Mục sư Nguyễn Công Chính tại tỉnh Kontum. Họ đã tịch thu tài sản, đốt nhà thờ và nhà ở của Mục sư Chính. Tuy đã chạy trốn nhưng vợ và các con Mục sư đã bị bắt lên trụ sở quận Vinh Quang từ 9:30 sáng đến 4:30 chiều. Vợ Mục sư đã bị đánh vào bụng trong khi mang thai 7 tháng.

Lời bàn: Người công an Cộng sản đã ĐÁNH VÀO BỤNG NGƯỜI MẸ ĐANG MANG THAI 7 THÁNG! Hắn là người ác? Hay là người cùng hung cực ác? Không! Hắn không phải là người, hắn chính là thú vật, một con thú trong bầy ác thú của Hồ Chí Minh! Có một nữ tác giả viết quyển Ngàn giọt lệ rơi(đó là tác phẩm A Thousand Tears Falling của Yung Krall, nhũ danh Đặng Mỹ Dung) để diễn tả cảnh phân lytan vỡmà gia đình bà phải gánh chịu trong cuộc chiến. Vì Tình mẫu tử thiêng liêng mà Thượng Đế trao ban cho những bậc Hiền mẫu của loài người, cúi xin những Bà mẹ khắp nơi trên thế giới hướng tâm về nước Việt Nam đau khổ và cầu nguyện cho Dân tộc Việt Nam, một Dân tộc đã đổ cả triệu triệu giọt lệ rơi trong suốt thời gian loạn lạc từ năm 1945 cho mãi đến tận bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007! Xin cầu nguyện cho bầy ác thú Hồ Chí Minh sớm trở lại thành người!

Hoàng Hải Thủy viết ở Rừng Phong

Viết ở Rừng Phong, Công tử Hà Đông tức nhà văn Hoàng Hải Thủy nhận xét về Việt Cộng rằng chúng không còn theo chủ nghĩa Cộng sản, không còn tin theo Mác-Lê nữa, nhưng chúng vẫn giữ những đặc tính của bọn Cộng sản. Những đặc tính ấy là: Ngu-Ác-Tham-Bẩn-Đểu.

Đó là những đặc tính cần và phải có đầy đủ mới có thể trở thành Tỷ phú Mỹ kim tại Việt Nam là một trong 10 nước nghèo nhất và trong 20 nước tham nhũng nhất thế giới. Theo bức điện thư số 39, đề ngày 9-2-2005 của Câu lạc bộ Dân chủ Việt Nam trích dẫn nguồn tin tuyệt mật được tiết lộ do một quan chức cao cấp của Bộ Công an (xin được giấu tên), thì danh sách các quan chức cao cấp Việt Nam có trương mục từ 500 triệu USD lên đến hơn 2 tỷ USD với nhiều tấn vàng gửi tại ngân hàng Thụy Sỹ như sau: Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Đương kim Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà, Đương kim Thủ tướng Phan Văn Khải, Cựu Tổng bí thư Đỗ Mười, Đương kim Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Đương kim Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Đương kim Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Đương kim Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng, Cựu Thứ trưởng Bộ Thương mãi Mai Văn Dâu, Cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Cựu Phó Ủy ban Thể dục Thể thao Lương Quốc Dũng…

Danh sách còn dài... nhưng rất tiếc chỉ diễn tả sự tình vào năm 2005 mà không được cập nhật hóa đến 2007. Bây giờ có ai đặt câu hỏi những Quan chức đỏ trên đã buôn bán món hàng gì hay đã làm nghề gì mà giàu đến như thế không? Chắc không ai muốn tìm câu trả lời, nếu có ai thắc mắc, xin mời đọc câu chuyện sau đây.

Chuyện một cô giáo yêu nghề

Nói tới chuyện nghề nghiệp và câu hỏi các Quan chức đỏ đã làm nghề gì, người viết mới nhớ lại câu chuyện một cô giáo yêu nghề gặp khổ nạn vì cô đã dạy bài đức dục về Nghề nghiệp theo đúng phương pháp sư phạm. Lúc đó vào khoảng 1964, Việt Cộng thường đắp mô trên đoạn đường từ Cần Giuộc tới Cần Đước, người viết được biệt phái theo Tiểu đoàn 2 TQLC để giữ an ninh vùng đó. Câu chuyện trên được truyền tụng trong giới giáo chức và phụ huynh học sinh như sau: một cô giáo dạy lớp Tư trường tiểu học Chợ Trạm, Cần Giuộc, cô yêu nghề mến trẻ và rất tận tụy. Một hôm, cô dạy bài đức dục về Nghề nghiệp. Theo đúng phương pháp sư phạm, cô giáo bắt đầu bài học bằng câu hỏi gợi ý. Với câu hỏi: “Ba em làm nghề gì?”, cô lần lượt hỏi vài ba em học sinh. Em thứ nhất trả lời “Ba em làm ruộng”. Em thứ hai trả lời “Ba em làm thợ mộc”. Đến em thứ ba thì em nói “Ba em làm Việt Cộng”. Cô giáo hoảng sợ, không hỏi nữa và cho học trò chép bài. Vài hôm sau, trong lúc cô giáo đang dạy, thì có ba bốn Việt Cộng mang vũ khí vào lớp, bịt mắt cô và giải cô đi, học sinh ngơ ngác nhìn theo, kinh hoàng!

Chúng dẫn cô giáo đi lanh quanh đến nửa đêm mới đến địa điểm Tòa án Nhân dân. Cô bị kết tội đã làm việc lãnh lương của Mỹ Ngụy mà còn thêm tội thứ hai là làm gián điệp cho giặc để truy tầm tố cáo những người làm cách mạng. Tội làm gián điệp là tội rất nặng đáng chết nên cô bị nhân dân kết án tử hình. Đảng lại bày trò mị dân: Tòa án Nhân dân thì kết án tử hình, nhưng Cách mạng lại khoan hồng, cô giáo được Đảng tha tội vì chỉ mới phạm lần đầu. Sau vụ khủng bố kinh hồn đó, cô giáo được thuyên chuyển về ngôi trường khác an ninh hơn.

Lời bàn: Xưa nay theo tình tự Dân tộc, chúng ta thường liệt kê nghề nghiệp trong xã hội bằng thành ngữ đơn giản như Sĩ Nông Công Thương hay Ngư Tiều Canh Mục. Sự giàu có dư dả được dẫn giải theo nhân sinh quan đại phú do thiên, tiểu phú do cần. Nhưng các quan chức đỏ trong triều đại Hồ Chí Minh làm nghề Việt Cộng, và đã thành đại đại phú, điều đó xin được diễn tả bằng phương trình toán học đơn giản như sau: Quan chức đỏ làm nghề Việt Cộng = Tỷ phú Mỹ kim

Lời bàn thứ hai: Đây thêm một điểm son của chế độ VNCH của miền Nam! Em bé học lớp Tư trong chuyện kể trên, dù có Ba làm Việt Cộng, vẫn được đi học bình thường trong tình tương thân tương ái của các bạn đồng lớp và được các thầy cô trong trường dạy dỗ tận tâm như những em bé khác. Do đó, ba của em vẫn được yên tâm đi làm Việt Cộng để đánh phá sát hại Dân tộc. Ở miền Nam vào thuở đó không phải chỉ có một em bé học lớp tư trường Chợ Trạm là có cha làm Việt Cộng đâu, mà là có cả ngàn cả vạn em bé như vậy! Những chiến sĩ VNCH đổ xương máu ở khắp chiến trường miền Nam ngăn chận Làn sóng đỏ để xây dựng một xã hội đầy tình người đẹp như vậy. Thật đáng tiếc vô cùng, chúng ta đã thất bại! Trong sự thất bại vô cùng to lớn đó, chúng ta đành ngậm ngùi với niềm an ủi nhỏ nhoi: Chúng ta không thành công, nhưng chúng ta đã thành nhân.

Bài viết của Dương Thu Hương

Trong bài viết của Dương Thu Hương với tựa đề khá táo bạo Là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền, nhà văn nữ nói tới một số vụ làm ăn của các Bự giòi. Con thì ăn cắp một nửa số xi-măng đổ lòng hồ Thủy điện Hòa Bình khiến mỗi năm một lần phải mời chuyên viên Hà Lan sang hàn vết nứt, mỗi lần tốn kém hàng trăm triệu USD và các ngân hàng bị huy động chạy nháo nhác như cứu hỏa. Con thì mua tàu bãi rác của Hải quân Nga thải đi sơn quét lại mang về lúc diễn tập sự việc mới đổ bể. Con thì mua tên lửa Nga đã tịt ngòi mang về bắn không nổ, mang tàu trục vớt không được phải thuê dân chài mò lên. Con thì rút ngân quỹ quốc gia cho vợ trổ tài xây sân bay trên đảo tốn hàng tỷ USD, ngày khánh thành cả sân bay, máy bay và phi công bị sập chìm xuống biển vô tăm tích, báo chí không được phép đưa tin ; đương nhiên Quốc hội cũng không được báo cáo v.v. và v.v…

Trở lại bài viết Là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền, Dương Thu Hương cho biết vào khoảng thời gian đó (năm 2005), ở Hà Nội có lưu truyền bản photocopie trên đó đăng thứ tự 50 con Giòi hạng một, những con Giòi chủ ngân khoản nhà băng khắp thế giới, nhiều nhất là Mỹ và Thụy Sĩ, mức tiền gởi thấp nhất trên 600 triệu USD. Bà viết rằng không đủ giấy và thời gian để liệt kê hết 50 con Giòi cấp 1, làm sao có thể đủ kiên nhẫn kể những con Giòi cấp 2 và cấp 3, cho nên bà viết tiếp:

Tôi chỉ biết rằng sự tàn nhẫn khốc liệt đang hoành hành trên xứ sở này nơi đám công tử đỏ đánh canh bạc cả trăm nghìn USD, cưỡi máy bay đi chơi gái Hồng Kông như người ta xuống đường đổ rác, trong khi con cái nông dân thất học vì không tiền mua vở, bao nhiêu người chết bệnh vì không tiền chữa, thậm chí có người bị trâu đâm lòi ruột bệnh viện cũng không cứu cấp vì... không đủ tiền nhập viện...

Câu chuyện hai tấm biển

Trong niềm đau khổ cùng cực của Dân tộc, chúng ta, cả Dân tộc, xin đồng thuận với Bùi Tín trong lời kêu gọi: Chúng ta, toàn dân ta, mọi người thật lòng yêu nước thương dân phải cùng kêu lên: đảng quyền kiểu Stalin và Mao 61 năm, quá đủ rồi.

Đảng phải trả Đất nước lại cho Dân tộc. Dân tộc sẽ trả lại Đảng những gì Đảng làm, tỷ như tấm biển chỉ đường chữ màu máu đỏ: Cảnh giác phát hiện và cương quyết đấu tranh vạch mặt phần tử chống phá công cuộc xây dựng và phát triển Đất nước.

Đó là Tấm biển của Đảng mà Đảng đã làm và đặt tại cổng vào khu chung cư của Hà Sĩ Phu ở Đà Lạt. Tấm biển ấu trĩ của cái đảng ấu trĩ đó, Dân tộc sẽ tưng bừng hoàn trả lại cho Đảng để Đảng mang về đặt ở hang Pắc Bó, nơi Hồ Chí Minh cư ngụ ngày xưa với đồi Mác và suối Lênin.

Và Dân tộc cũng xin làm một tấm biển thứ hai, Tấm biển của Dân tộc, ghi lại nguyên văn lời phát biểu của Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Công an số một của Hồ Chí Minh, trước khi hiếp dâm cô Nông Thị Xuân (Cô là bồ nhí của Hồ Chí Minh và đã sanh cho HCM một đứa con trai là Nguyễn Tất Trung). Đây tấm biển của Dân tộc làm cho Đảng: «Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt Nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt bỏ tù, thủ tiêu đứa nào tùy ý,              và tôi nói cho bà biết : ông cụ già nhà bà cũng không ngoài tay vói của tôi» (Danh ngôn của Trần Quốc Hoàn, Công an số một của Hồ Chí Minh)

Sắp xếp lại theo trật tự tiến hóa của nền văn minh nhân loại, và vì Tiền đồ của Dân tộc Việt, hai tấm biển, Tấm biển của ĐảngTấm biển của Dân tộc làm cho Đảng, cả hai tấm biển đó xin được trang trọng đặt ở hai bên cửa hang để trang trí cho hang Pắc Bó của Hồ Chí Minh. Và tên tuổi những người đấu tranh dân chủ và nhân quyền cho Dân tộc như Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ và biết bao người khác nữa xin được lưu truyền như những điểm son trong sử xanh xứng danh là bậc Sĩ phu Bắc Hà của miền đất thiêng Nghìn năm Văn vật.

Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Bịt miệng 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney

CHƯƠNG 6 TƯ TƯỞNG HỒ CHI MINH

Bàn về mối tương quan giữa văn phong và tác giả, một văn sĩ Pháp có nói: “Văn tức là người”. Ở phương Đông, các bậc hiền giả dùng văn chương để giảng dạy nhân luân đạo nghĩa như câu của thánh hiền: “Văn dĩ tải đạo”. Cho nên để tìm hiểu con người Hồ Chí Minh, ta thử xem qua những ngôn từ ông phát biểu và trích vài đoạn văn thơ ông ta viết để xem bản chất chân tướng và tâm địa của ông ra sao! Sau đó ta nghiệm xem Hồ Chí Minh có xây dựng được hệ tư tưởng nào để đóng góp vào nền văn minh văn hóa cho Dân tộc Việt Nam.

Đã vô thần mà còn phê bình Đức Phật

Trong sách của trường Đại học Nhân văn, khoa Tâm lý học, đoạn nói về Đức, lời Hồ Chí Minh như sau: “Có đức mà không có tài như ông Bụt (Phật), thì không có hại gì cho xã hội, nhưng cũng chẳng có ích lợi gì cho xã hội”.Văn liệu nầy được trích từ điều 8 trong thư của huynh trưởng Hồ Tấn Anh gởi cho ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, các Tổ chức Nhân quyền và các Chánh phủ trên khắp thế giới trước khi tự thiêu ngày 2-9-2001 để phản đối và tố cáo Chính phủ Hà Nội đàn áp Phật giáo (Lá thư được tác giả Trần Viết Đại Hưng sưu tầm và trích đăng trong quyển Đối lập mặc áo cà sa và chùng thâm, trang 202). Trước lá thư tuyệt mạng nầy, Huynh trưởng Hồ Tấn Anh đã viết tất cả 249 lá thư phản đối và trình bày sự việc đàn áp, bất công đối với Phật giáo, gửi các cơ quan công quyền Cộng sản từ Quảng Nam ra đến Hà Nội. Giống như cuộc nói chuyện với người điếc và câm, những lá thư đầy tâm huyết nầy cũng như những trang giấy lộn gửi cho bọn người mù chữ: Cộng sản càng ra sức đàn áp Phật giáo mà Quảng Nam Đà Nẵng là nơi bị đàn áp khốc liệt nhất!

Trong phạm vi tâm linh và tôn giáo, luật pháp vẫn dành tự do cho những người không tin tưởng Thánh Thần cùng Đức Phật và Đức Chúa. Đó là Tự do Tín ngưỡng và những người không tin như vậy có thể vỗ ngực tự xưng rằng mình là vô thần. Trong những nước tự do dân chủ, những người công dân dù là hữu thần hay vô thần vẫn sống hòa hợp bên nhau. Nhưng người Cộng sản vô thần thì không được như vậy. Người Cộng sản mà vô thần thì còn là vô đạo, vô luân, vô lễ giáo, bất nhân, bất nghĩa, bất lương, bất hợp quần, đứng ở lập trường vô thần của mình, nhìn những người hữu thần như kẻ thù cần phải tiêu diệt. Đó là nguyên nhân gây bất hạnh cho Dân tộc Việt Nam, vì khi Hồ Chí Minh về Hà Nội đọc Tuyên ngôn Độc lập dối trá, thì ông đã là người Cộng sản vô thần xem tôn giáo như là thuốc phiện cần phải giải trừ theo chính sách vô tôn giáo của các bậc thầy Lênin và Stalin. Đúng ngay ngày 19-8-1945 là ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, thì ở Hà Đông, đất bằng bỗng dậy sóng. Sư phụ của thầy Thích Quảng Độ là Hòa thượng Thích Đức Hải bị tòa án nhân dân vu cáo về tội “Việt gian bán nước” và bị kết án tử hình. Chúng đánh đập Hòa thượng hết sức dã man trước khi hành quyết, trước sự chứng kiến của thầy Thích Quảng Độ lúc đó chỉ mới 18 tuổi.

Hai câu lục bát trong truyện Kiều của Nguyễn Du “Có tài mà cậy chi tài - Chữ tài liền với chữ tai một vần”mà người Việt nào cũng ghi nhớ để trau dồi đức tính khiêm cung, đức tính mà Hồ Chí Minh dẫm đạp dưới chân để tiến bước trên con đường lập dị tự mình viết sách để thần thánh hóa mình. Còn bàn về tương quan nghiệp quả giữa TàiĐức, thì một nhà hiền triết phương Đông có nói: “Người có đức mà không có tài là người hiền. Còn người có tài mà không có đức là người ác. Khi Hồ Chí Minh cho rằng Đức Phật không có tài thì chúng ta còn có thể miễn cưỡng, nhưng khi ông cho rằng vì Đức Phật chỉ có đức mà không có tài nên cũng chẳng có ích lợi gì cho xã hội, thì ông tự thú nhận rằng chữ đức không quan trọng trong việc ích nước lợi dân. Nhân sinh quan Hồ Chí Minh như vậy thật sai lầm và tai hại vô cùng. Trong Tình tự Dân tộc, TàiĐức được xem trọng ngang nhau. Thành ngữ Tài đức vẹn toànlà để tôn vinh những bậc minh quân và những vị quan cầm cân nẩy mực có tài kinh bang tế thế và nhân từ đức độ trong lịch sử mà triều đại nào cũng có. Chữ Hiền tài trong ngôn ngữ của ta cũng bao gồm hai khía cạnh hiền đức và tài ba. Bởi trọng tài khinh đức như vậy, nên Hồ Chí Minh đã thành người cai trị BẠC ĐỨC NHẤT và TÀN ÁC NHẤT trong lịch sử Việt Nam.

Nhưng bạn đọc thân mến ơi! Khi chúng ta luận về TàiĐức của Đức Phật, Đức Khổng hay Đức Chúa, thì chúng ta đã lọt vào bẫy của Hồ Chí Minh rồi. Trong những xã hội dân chủ văn minh, chúng ta phân biệt thần quyền và thế quyền. Thần quyền dành cho những bậc tu hành chân chính, còn thế quyền là phạm vi hoạt động của những chính trị gia ở ngoài đời. Xuyên suốt dòng lịch sử, Hồ Chí Minh là người lãnh đạo chuyên dùng bạo lực công an và bộ đội để tóm thâu cả thần quyền và thế quyền trong tay mình. Chờ cho có thế mạnh trong tay, tức là lúc Mao Trạch Đông làm chủ nước Trung Hoa, Hồ Chí Minh có chỗ tựa vững chắc ở phương Bắc mới leo thang chiến tranh đánh Dân tộc và tung ra khẩu hiệu mới : “Tiêu diệt năm thành phần của xã hội: trí phú địa hào và tôn giáo lưu manh, thêm “Tôn giáo vào hàng ngũ phản động cần phải tiêu diệt”, vì khẩu hiệu “Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ” thì đã có từ lúc thiết lập phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 rồi. Xin đọc lại bức thư của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang gởi cho các ông Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải và Nông Đức Mạnh ngày 21-4-2000: “…Năm 1950, sống ở Liên khu 5 vào thời Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động chiến dịch Cải cách Ruộng đất, tôi đã từng nghe cán bộ và loa phóng thanh ra rả ngày đêm kêu gọi nhân dân tiêu diệt năm thành phần xã hội “Trí, phú, địa, hào, và tôn giáo lưu manh”. Mười ngón tay mà chặt mất năm thì còn lại gì? Năm 1951, ông Nguyễn Duy Trinh, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 5, đại diện Chính phủ Trung ương, tuyên bố rằng Phật giáo đã đến lúc cáo chung.

Nhà Phật có muôn kinh vạn quyển gồm Kinh, Luật và Luận sưu tầm qua 4 kỳ Kiết Tập Kinh Điển. Lời Phật dạy vô vàn, học suốt đời biết có hết được chăng ? Chỉ bàn về điều đầu tiên của Ngũ giới là Cấm sát sanh vì đại lượng từ bi thương yêu tất cả chúng sinh, biết trọn đời chúng ta có giữ vẹn được hay chăng! Chỉ một án mạng là giết Nông Thị Xuân, người thiếu nữ ngây thơ trong trắng mà “Hồ Chí Minh Nguyễn Tất Thành” đã từng ân ái và sanh cho ông đứa con trai Nguyễn Tất Trung, ông đã phạm trọng tội sát sanh rồi, huống hồ ông là kẻ gây ra cuộc chiến tranh sát hại năm, sáu triệu nhân mạng và gây thương tật cả 10 triệu người. Trong Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc, vô số người bị xử tử vì bị vu cáo là Việt gian bán nước trong Lễ Tế cờ của ông, vô số người tử trận ở hai bên chiến tuyến có khi là bà con hay anh em một nhà, vô số người chết dọc đường mòn Hồ Chí Minh vì bị rắn độc cắn, bị thú dữ vồ, bị sa chân xuống vực sâu, bị chết đói vì lạc đường (tác giả Bùi Tín trong quyển Hoa xuyên tuyết có kể đến 10 kiểu chết khác nhau, tác giả Xuân Vũ trong quyển Đường đi không đến kể thêm 1 kiểu chết khác nữa là “bị bắn tầm đạn gần từ sau gáy”!), vô số người chết trong các ngục tù giả danh là Trại Học tập Cải tạo, vô số người chết ngoài biển cả khi vượt biên vượt biển tìm tự do.

Đến đây, xin mở dấu ngoặc để bàn về nạn Hải tặc Thái Lan. Trong số những thuyền nhân bất hạnh bỏ mạng trên đường vượt biên, có những người là nạn nhân của Hải tặc Thái Lan. Vì xảy ra trên vịnh Thái Lan, nên dư luận cho rằng do người Thái Lan gây ra. Xét vì dân Thái rất sùng đạo, gần như hầu hết những người thanh niên Thái để chuẩn bị bước vào đời thường phải vào chùa học đạo trong một thời gian từ một tháng đến ba tháng cho nên ba giới cấm căn bản của Ngũ giới là cấm Sát sanh, cấm Trộm cắp và Cấm Tà dâm hẳn người Phật tử Thái phải giữ nằm lòng. Vì thế có dư luận cho rằng đa số các hải tặc không phải là người Thái mà chính là nhóm người Việt ở Bắc Thái, tức là nhóm người đã gia nhập đảng Cộng sản Xiêm do Hồ Chí Minh thành lập hồi thập niên 20. Nghi vấn nầy có cái lý của nó ở điểm người Phật tử Thái rất sùng đạo còn các người Việt ở Bắc Thái là Cộng sản vô thần. Hồ Chí Minh một lòng theo Mác Lê trọn đời, cho đến lúc chết cũng để lại di ngôn sẽ gặp các ông tổ Cộng sản ở phía bên kia thế giới, cho nên ông đã phạm vô vàn tội ác mà không biết ăn năn sám hối, mà lại còn phê bình “Đức Phật không có tài ba” này nọ. Lời phê bình bất kính của Hồ Chí Minh đối với Đức Phật chỉ đáng vất vào sọt rác lịch sử mà thôi! Cũng đáng vất vào sọt rác lịch sử nhiều thứ khác nữa của Hồ Chí Minh, như Chủ trương Tam vô, Sách lược Đấu tranh Giai cấp v.v…

Riêng về thủ đoạn của Cộng sản tiêu diệt Phật giáo, xin một nén tâm hương cúng dường và một phút mặc niệm cho Huynh trưởng Hồ Tấn Anh cùng các vị Tăng ni và Phật tử khác đã tự thiêu để phản đối chính phủ Hà Nội đàn áp và tiêu diệt Phật giáo. Huynh trưởng Hồ Tấn Anh đã cùng 13 Huynh trưởng thuộc Gia đình Phật tử Quảng Nam phát nguyện tự thiêu để bảo vệ Chánh Pháp, và ông là người đi đầu. Xin nhắc trong số Phật tử đã tự thiêu để phản đối Chính phủ Cộng sản vô thần đàn áp tôn giáo, ta có thể kể:

- Phật tử Nguyễn Tấn Dũng tự thiêu tại Huế ngày 21-5-1993. Việt Cộng đổi tên người tự thiêu là Đào Quang Hộ và vu khống rằng ông buồn chuyện gia đình nên mới đi tìm cái chết.

- Đại đức Thích Huệ Thâu 43 tuổi, tự thiêu ngày 28-5-1994 tại Tịnh xá Ngọc Phật ở Ba Càng, Vĩnh Long.

- Bà Nguyễn Thị Thu, Phật giáo Hòa Hảo, 75 tuổi, tự thiêu ngày 19-3-2001 trên đường đến chợ Cái Tàu Hạ xã Tân Hội, tỉnh Đồng Tháp để đòi Việt Cộng trả tự do cho cụ Lê Quang Liêm và đòi ngưng đàn áp Phật giáo Hòa Hảo. Nhục thân của bà Thu bị Việt Cộng cướp đi và không chịu trả lại cho thân nhân làm lễ an táng.

- Cô nữ sinh viên Phật tử người Đức Sabine Kratze pháp danh Từ Tâm. Năm 1991, cô Sabine sang Việt Nam học tiếng Việt ở Sài Gòn và tốt nghiệp thủ khoa năm 1994. Sau đó cô theo học ngành y dược Dân tộc, cô đi thăm viếng nhiều danh lam cổ tự từ Nam chí Bắc, rồi cô quy y với pháp danh là Từ Tâm và thụ trường trai. Đến khi nghe tin về vụ xử Thầy Thích Quảng Độ và Chư tăng Phật tử ngày 15-8-1995, cô Sabine Từ Tâm vô cùng xúc động và tự thiêu ngày 2-9-1995 cúng dường Chánh pháp để phản đối vụ án bất công phi pháp của Việt Cộng và cầu nguyện cho GHPGVNTN sớm thoát cảnh Pháp nạn.

- Nhưng bi hùng nhất là Vụ tự thiêu tập thể của 12 vị Tăng Ni tại chùa Dược Sư ở Cần Thơ ngày 2-11-1975. Về vụ việc nầy, Việt Cộng vu khống các tăng ni hủ hóa với người ngoài và tự hủy mình vì xấu hổ. Chúng đưa Thầy Thích Quảng Độ xuống Cần Thơ và yêu cầu thầy ký vào biên bản chúng ngụy tạo, nhưng Thầy nhất định không ký.

- Phật tử Phạm Gia Bình, trường hợp rất đặc biệt vì anh vốn là thuyền nhân, định cư ở Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Anh tự thiêu lúc 7 giờ sáng ngày 6-4-1993 để lại các bức thư tố cáo CS đàn áp Phật giáo gởi cho Tổng thống Clinton, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Cư sĩ Võ Văn Ái, và chư Tăng ni, Cư sĩ.

Đã bán nước mà còn khoe tài

Khoảng năm 1947, trong buổi viếng thăm đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Hồ Chí Minh có làm một bài thơ Đường nhan đề Viếng đền Kiếp Bạc. Bài thơ như sau:

Cũng là hào kiệt, cũng anh hùng

Tôi Bác cùng chung nợ kiếm cung

Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng

 Bác đưa một nước qua nô lệ

Tôi dắt năm châu đến đại đồng
 Bác có linh thiêng cười một tiếng

Mừng tôi Cách mạng sắp thành công

Bài thơ tưởng rằng có khẩu khí anh hùng, nào ngờ nó lại nói lên tính tình ngạo mạn vì Hồ Chí Minh đã xưng “Tôi tôi Bác bác”như người ngang hàng với Đức Thánh Trần, vị anh hùng Dân tộc mà ai ai cũng một lòng tôn kính. Chúng ta thường ví những người dân trong nước như những đứa con của một Đại Gia tộc vì chúng ta vẫn tin ở Truyền thuyết Một Mẹ Trăm Con, truyền thuyết mà chúng ta hãnh diện và giữ gìn như gia bảo thiêng liêng. Thử tưởng tượng trong ngày kỵ giỗ của một bậc tiên hiền của Đại gia tộc như Đức Thánh Trần đã hai lần đại phá quân Nguyên, trong lúc những đứa con hiếu thuận của Đại Gia tộc Việt Nam đều thành tâm cúng bái để tưởng niệm công đức của Ngài, thì đứa con ngỗ nghịch là Hồ Chí Minh leo lên bàn thờ ngồi để “Tôi tôi Bác Bác” với Ngài như người ngang hàng với mình và lại còn khoe mình tài ba hơn Ngài. Như vậy thì xem tội Phạm thượng và Bất kính của Hồ Chí Minh có đáng bị đánh đòn hay không? Đáng lắm chứ! Nhưng phạt đòn thì còn quá nhẹ!

Đứa con ngỗ nghịch của Dân tộc là Hồ Chí Minh đáng bị đánh đòn thật, nhưng trước khi phạt đòn, xin đọc lời luận tội của Bác sĩ Phan Quang Đán bằng bài thơ họa Hỏi tội Hồ tặc (trích Nguyệt san Bất khuất, số 2 tháng 4 năm 1990, trang 47):

Bớ tên Hồ tặc, Vẹm gian hùng
Dám sánh Đức Trần nghiệp kiếm cung!
Mi đứa tay sai Sô-Viết đỏ
Ngài vì sao sáng giống nòi Hồng
Bình Nguyên Ngài cứu non sông Việt
Tổ quốc mi quên nghĩa cộng đồng
Nô lệ toàn dân nay đói rách
Như mi bán nước tội hay công?

Bác sĩ Phan Quang Đán dùng bài thơ họa Hỏi tội Hồ tặc cũng chưa luận hết tội, nên ông phán thêm vài lời như sau: “Tên Hồ Chí Minh văn bất thành cú, làm tay sai cho ngoại bang, lưu manh, tàn ác, gieo rắc căm thù oán hận, phá hoại đoàn kết Dân tộc, hy sinh xương máu hàng triệu người, làm mất nước, dân thành nô lệ, đói rách kêu không thấu trời. Đức Trần Hưng Đạo và tên Hồ Chí Minh khác nhau một trời một vực, một bên là thiên thần, một bên là quỷ sứ vậy!” 

Luận về tội Hồ Chí Minh đã phạm thì vô cùng bất tận! Nhưng đối chiếu với chiến công hiển hách của Đức Thánh Trần hai lần đại phá quân Nguyên để bảo toàn bờ cõi, tội của “Quỷ sứ Hồ Chí Minh” để làm mất đất, mất biển, mất hải đảo của Tổ quốc thì không tội nào lớn bằng (“Quỷ sứ” chữ của Bác sĩ Phan Quang Đán). Sự việc mất đất xảy ra ở biên giới Việt Hoa, xin đọc quyển Ma đầu Hồ Chí Minh, tác giả Hoàng Quốc Kỳ (trang 199):

“Từ năm 1950, lợi dụng phía Việt Nam đang bận rộn chiến cuộc, Trung Cộng cho quân lén dời cột mốc từ Mường Te đến Móng Cáy sâu vào nội địa Việt Nam, có chỗ đến hàng cây số. Từ năm 1954 trở đi, họ vẫn tiếp tục nửa đùa nửa thật, vừa lén lút lấn đất của ta theo các kiểu sau đây. Lính Trung Cộng thường xuyên sang phía biên giới Việt Nam cười cợt với bộ đội Việt cộng để mượn chậu, xin nước giặt giũ. Giặt xong, họ tắm luôn. Trước khi tắm, họ đóng bốn cái cọc rồi lấy vải nhựa (nylon) quây chung quanh. Tắm xong, họ cứ để nguyên cái “phòng tắm” như vậy, còn để cả hộp xà phòng, khăn lau ở đấy. Dĩ nhiên, bộ đội Việt cộng đâu dám động tới những thứ đó, vì sợ mất “tình hữu nghị”. Rồi thì chiều nào, họ cũng sang tắm giặt một cách rất tự nhiên. Lâu ngày, họ dựng cả nhà ở ngay bên cạnh “phòng tắm”. Thế là khoảng đất ấy thuộc về họ. Cách thứ hai là họ trồng các thứ bí, khoai… cho bò qua biên giới Việt Nam. Bộ đội Việt cộng lại càng không dám đụng tới, vì sợ mang tội ăn cắp hay phá hoại sản xuất của “nước bạn”. Và cứ thế, họ cuốc lấn dần, lấn dần vào đất của ta, mỗi mùa một quãng. Cách thứ ba, lợi dụng những đêm tối trời, mưa to gió lớn, họ đi dời những cột mốc sâu vào phần đất Việt Nam. Tình hình đó được cả trăm trạm tiền tiêu dọc biên giới Việt Hoa báo cáo lên chính phủ, nhưng Hồ Chí Minh cam tâm im lặng để Trung Cộng không ngừng lấn tới. Đã thế, “Bác” còn già mồm hứa hão rằng sẽ đi gặp bác Mao giải quyết trong tình hữu nghị”.

Hồ Chí Minh chỉ hứa hão như thế cho xong chuyện mất đất ở biên giới. Còn việc mất hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì đã có Phạm Văn Đồng đứng ra chịu đạn vì chính Phạm Văn Đồng lúc đó giữ chức Thủ tướng đã ký Công hàm ngày 14-9-1958 xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo đó. Trong một chế độ mà Hồ Chí Minh được tôn vinh là “Cha già Dân tộc” và đã tự hào phát biểu (với tướng Salan của Pháp năm 1946): “Họ làm được cái gì mà không có tôi? Chính tôi đã tác thành cho họ mà!”. “Họ” đây là những Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh, Lê Duẩn…

Giáo sư P.J. Honey, một học giả rất am tường về Cộng sản Việt Nam, vì chính ông đã giảng dạy môn nầy bằng tiếng Việt tại đại học Luân Đôn và ông cũng là cố vấn của Ban Việt ngữ đài BBC trong một thời gian dài, đã nói về uy quyền và sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh trong Đảng như sau (Trích Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp, tác giả Minh Võ, trang 315): “Chỉ một mình ông (Hồ) quyết định những vấn đề chính trị cao cấp, còn những kẻ khác, kể cả các ủy viên Bộ Chính trị, chỉ có việc chấp nhận và tuân hành mệnh lệnh của ông về các vấn đề liên quan.”

Cho nên việc thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm giao hai quần đảo cho Trung Quốc được tác giả Hoàng Quốc Kỳ diễn tả là “do Hồ Chí Minh cầm tay Phạm Văn Đồng ký” giống như cô giáo cầm tay em bé lớp vỡ lòng viết những chữ A, B, C đầu đời. Thêm một trường hợp Hồ Chí Minh chơi trò Ném đá giấu tay: “Bác” đã ký tên bán Nước bằng bàn tay của Phạm Văn Đồng.

Về chủ quyền hai quần đảo Trường Sa (Spratly) và Hoàng Sa (Paracel) được tác giả Lê Văn Ngộ trong Hội Đồng hương Tây Ninh ở Sydney nghiên cứu rất tường tận trong tác phẩm Mùa xuân cho Dân tộc Việt Nam (xuất bản ở Sydney năm 1999). Tác giả Lê Văn Ngộ trưng dẫn rất nhiều tài liệu như Trường Sa Nhất Nhật Trình đời vua Lê Thánh Tôn (thế kỷ 15), Thiên Nam Tứ Chi Lộ Đồ Thư năm 1700, Phủ Biên Tạp Lục năm 1776, vua Gia Long cho lập Đội Hải quân để bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa năm 1802, Địa Dư Chí năm 1821, Hoàng Việt Địa Dư Chí năm 1883, Đại Nam Thực Lục Tân Biên năm 1844, Đại Nam Thực Lục Chính Biên năm 1848, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ năm 1851, Việt Sử Cương Giám Khải Lược năm 1876, Đại Nam Nhất Thống Chí năm 1910, và rất nhiều tài liệu của các sử gia Pháp. Giám mục Taberd, một nhà bác học và thám hiểm nổi tiếng, có vẽ bản đồ cổ An Nam Đại Quốc Bản Đồ năm 1838 xác nhận Hoàng Sa là Bãi Cát Vàng (nguyên văn Katvang) của Việt Nam.

Gần đây nhất, vào ngày 6 và 7-9-1951, dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại chấp chánh, thủ tướng Trần Văn Hữu tham dự Đại hội Quốc tế ở San Francisco cùng với 50 quốc gia. Trong hội nghị nầy, thủ tướng Trần Văn Hữu đã chính thức lên tiếng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại Trường Sa và Hoàng Sa, kết quả là không có quốc gia nào phản đối. Như vậy mặc nhiên chủ quyền của Việt Nam đã được quốc tế công nhận.

Đến bây giờ hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, xin Dân tộc hãy ghi nhận công lao của thủ tướng Trần Văn Hữu dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Đồng thời cũng xin ghi thật đậm nét vào lịch sử việc “nhắm mắt ký tên bán nước” của thủ tướng Phạm Văn Đồng dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh để làm mất Trường Sa và Hoàng Sa. Hai thủ tướng, hai chế độ, hai thái cực! Dân tộc đành phải gọi Hồ Chí Minh là Đại Việt gian, Đại Phản nghịch, Đại Tội đồ về tội bán Nước xuyên suốt 4000 năm lịch sử! Chỉ có một, một mà thôi, không có hai, không ai bằng!

Dạy Dân kêu Trời bằng “Thằng”

Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong thời gian ở tù 10 năm, đã khám phá vô số những xảo trá và đê hèn của Việt Cộng. Như trong phép xưng hô của Việt Cộng, Hồ Chí Minh đã thiết lập một chiến tuyến giữa bạn và thù thật minh bạch (Trích Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên, tr. 265):

Trong tiếng Việt của ta cách xưng hô thật phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là thằng hết, còn ai chưa bị bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi tên không. Cách gọi thằng, con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính ông Hồ Chí Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc: thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xihanúc, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-đét Phrăng…”

Cách gọi như thế được coi như sự khẳng định lập trường chính trị, cho nên công an và văn nô đều nói và viết theo “Bác Hồ” của chúng, Vũ Thư Hiên viết tiếp: “Theo gương ông, về sau người ta gọi kẻ thù nào cũng bằng thằng hết: thằng Bảo Đại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu…

Rồi cũng theo gương Hồ Chí Minh coi trời bằng vung, và với khí thế đang lên rất cao sau năm 1975, các đội thủy lợi ở miền Nam trương khẩu hiệu lên khắp nơi, khoe tài làm thủy lợi và kêu TRỜI bằng “thằng”: Thằng trời đứng ra một bên. Để cho thủy lợi tiến lên thay trời.”

Người ký giả lão thành Nguyễn Ang Ca, đã sống qua các thời Pháp thuộc, thời VNCH, và thời Việt Cộng cai trị, có viết một bài báo nhan đề Sài Gòn: Toàn những chuyện khó tin mà có thật với đoạn kết như sau (trích Bán Nguyệt san Chiêu Dương, số 16 năm 1983, trang 29): “Đối với bọn Cộng sản Việt Nam, chuyện gì chúng cũng có thể làm. Trời, Đấng Jésus Christ, Phật tổ Thích Ca, Đức Giáo hoàng…, bọn Cộng sản đều gọi tuốt bằng “thằng”, chỉ có Bác, Lênin, Mao Trạch Đông là bọn chúng xưng tụng thôi, thì thử hỏi bọn Cộng sản Việt Nam đâu có còn lương tri chi nữa mà phê bình và luận bàn vậy.

Trong mục Ý kiến Độc giả của Bán Tuần báo Việt Luận ngày 14-9-2007, có bài góp ý của độc giả Phan Quang Cảnh, xin được trích: “Người có văn hoá, sống trong xã hội văn minh, không nên xử dụng ngôn ngữ hạ cấp. Trên báo Thông Luận ngày 4-9-2007, giáo sư Nguyễn Văn Trung có kể chuyện học giả Đào Duy Anh vào Nam sau 1975 và đến thăm một số trí thức miền Nam. Trong câu chuyện, học giả Đào Duy Anh thường gọi “Thằng Diệm, Thằng Thiệu”. Chúng tôi chỉnh: “Thưa Cụ, trong Nam, một cách chính thức trên sách báo, khi nói tới những lãnh tụ miền Bắc bao giờ cũng gọi là “ông” cả, ông Hồ Chí Minh, ông Phạm Văn Đồng… không bao giờ gọi là “thằng”. Học giả Đào Duy Anh thú nhận: “Tôi sống với họ lâu năm quá nên cũng bắt chước thói quen hạ cấp. Xin lỗi”.

Cái nôi của nền văn hóa Việt tộc!

Ông bà chúng ta ngày xưa coi trọng lời ăn tiếng nói và để lại cho chúng ta cả một kho tàng về phép ăn nói sao cho hợp lễ nghi phong hóa, nào là: “Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần”, “Một tiếng chào cao hơn mâm cỗ”, “Trình, thưa, vâng, dạ, đứng, ngồi - Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên”, “Tiên học lễ, hậu học văn”, v.v…Bậc hiền mẫu như mẹ cụ Phan Bội Châu dạy dỗ lúc cụ lên sáu, thì cẩn trọng giữ gìn lời nói cho đến “nửa câu nói cũng không khinh xuất”.Chúng ta học thêm được một nếp sống đẹp: trong từ đường Phạm tộc ở An Lễ của Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy có bức hoành phi với 4 chữ Ngôn Hành Kính Tín (Lời dạy của bức hoành: lời nói phải đi đôi với việc làm để được người đời kính trọng và tin tưởng). Nhưng “Thượng bất chánh, hạ tất loạn, Hồ Chí Minh tự xưng là Cách mạng bài Phong đả Thực mà lại du nhập cách xưng hô côn đồ vô lễ giáo “con nầy thằng kia”làm bại hoại gia phong quốc pháp, đạp đổ hết những thuần phong mỹ tục mà tiền nhân đã dày công tô điểm từ thời lập quốc. Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện, trong bài thơ tả cảnh tù ở những vùng núi rừng sâu thẩm, đã đặt câu hỏi cho thế giới trả lời:

Từ vượn lên người mất mấy triệu năm!
Từ người xuống vượn mất bao năm?
Xin mời thế giới tới thăm
Những trại tập trung núi rừng sâu thẳm

Đâu có cần phải đến những vùng rừng núi xa xăm ở miền thượng du Việt Bắc! Ở ngay vùng châu thổ sông Hồng, cái nôi của nền văn hóa Việt tộc, Hồ Chí Minh từ Nga Tàu về đánh phá tan tành và gây thành cảnh địa ngục trần gian để trú ngụ một xã hội vô cùng man rợ. Đây, một trích đoạn của tác giả Huy Vũ, trong bài Chuyện lánh nạn Cộng sản năm 1954 của gia đình tôi (Nguyệt san Làng Văn, số 213 tháng 5 năm 2001, trang 75):

Trong giai đoạn hạ uy thế nầy (đợt Phóng tay Phát động Quần chúng cuối năm 1954), thầy mẹ tôi tuy đã trên dưới sáu mươi, song khi ra đường gặp nông dân hay con cái của họ, dù chỉ là đứa trẻ nít năm sáu tuổi, chẳng những phải đứng nép về một phía bên để nhường lối đi cho họ, mà còn phải chắp tay trước ngực, phải cúi đầu và nói lớn: “Con xin kính chào ông (hay bà) nông dân”. Ngoài ra, thầy mẹ tôi còn bị nông dân và đám con cái hỉ mũi chưa sạch của họ hạch hỏi, hành hạ, ném đá, đánh đập, và gọi là thằng này, con kia.

Trong một bài viết của Dương Thu Hương vào năm 2002, chúng ta hãy nhìn xem vào những năm 1953-1955 (trong CCRĐ), Cái nôi của nền văn hóa Việt tộc đã bị Hồ Chí Minh biến thành một vùng dã man và con người biến thành dã thú:

“Trong lịch sử bốn ngàn năm, triều đình Cộng sản là triều đình duy nhất cho tới nay, dạy con gái, con dâu vu khống bố hiếp dâm; dạy con trai, con rể chỉ vào mặt bố “đả đảo thằng bóc lột”, dạy cho láng giềng tố cáo điêu chác, đâm chém, dầy xéo mồ mả của nhau… Khi con người đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn lần như thế đối với tha nhân”.

Cuộc “Kách mệnh” của Hồ Chí Minh “thành công, thành công, đại thành công”! Hồ Chí Minh đã xây dựng được một xã hội man rợ để cho trẻ con năm, sáu tuổi gọi những bậc cao niên là “con nầy thằng kia”! Man rợ tột cùng! Nào có kém bộ lạc ăn thịt người! Ai là người được hạnh phúc trong một xã hội như vậy? Cha mẹ chúng chăng? Chắc là không! Họa chăng chỉ có Hồ Chí Minh! Dân tộc ơi! Hồ Chí Minh đại thành công, nhưng Dân tộc đại bất hạnh! Hãy khóc cho thật nhiều đi! Hồ Chí Minh đã phá nát hết cả rồi! Đâu còn “Kính lão đắc thọ”! Đâu còn thuần phong mỹ tục, lễ nghi phong hóa bốn ngàn năm văn hiến của Ông bà Tổ tiên để lại! Đã mất hết cả rồi!

Cam tâm làm Kominternchik của Komintern

Trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập, lời giảng dạy của Hồ Chí Minh về Quốc tế Cộng sản như sau : “Đệ tam Quốc tế là một đảng Cộng sản thế giới, các đảng ở các nước như là chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Đệ tam Quốc tế, thì các đảng không được làm”.

Xem ra Hồ Chí Minh có vẻ hãnh diện việc Đảng Cộng sản Việt Nam được làm một chi bộ của Đệ tam Quốc tế. Về mặt điều hành việc đảng ở trong nước thì Hồ Chí Minh hô hào khẩu hiệu “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân dân làm chủ.” Ở trong nước thì như thế, Đảng lãnh đạo một cách độc tài, là chủ nhân ông đứng trên cả nhà nước và Quốc hội. Nhưng đối với Đệ tam Quốc tế, theo lời giảng dạy của Hồ Chí Minh thì: “Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Đệ tam Quốc tế thì các đảng chi bộ không làm được. Chúng ta đã thấy được gì chăng? Chúng ta nói lên được điều gì chăng? Hỏi tức là trả lời, nếu ta dùng xảo ngôn tuyên truyền của Hồ Chí Minh để trả đòn, thì câu giải đáp hiển nhiên là: “Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập và lãnh đạo chỉ là đảng bù nhìn tay sai của Đệ tam Quốc tế, và nước Việt Nam là chư hầu, là thuộc địa của Đế quốc đỏ Liên Xô!” Khi Hồ Chí Minh cam tâm làm Kominternchik của Komintern (tức là Quốc tế ủy của Đệ tam Quốc tế), thì ông đã phế bỏ Độc lập của Dân tộc rồi! Bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập gồm 12 tập dài 7.866 trang chứa đầy những Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một mối Ô nhục lớn cho Nền Văn hóa Dân tộc! Phải mau mau vất vào sọt rác lịch sử, càng để lâu cho sinh viên học càng thêm di hại! Dân tộc hãy quay về học lại bài học yêu nước của danh tướng Trần Bình Trọng “Thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc. Lời kêu gọi “Hãy trở về với Dân tộc” thật thống thiết và khẩn cấp vô cùng!

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17

@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:

facebook

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site