lịch sử việt nam

Trang Chính

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Blog Anh Ba Sàm:

Blog Cầu-Nhật-Tân:

Blog Cu-Làng-Cát:

Blog Dân Làm Báo:

Blog Dân Oan Bùi-Hằng:

Blog Giang-Nam Lãng-Tử:

Blog Huỳnh-Ngọc-Chênh:

Blog Lê-Hiền-Đức:

Blog Lê-Nguyên-Hồng:

Blog Lê-Quốc-Quân:

Blog Mai-Xuân-Dũng:

Blog Người Buôn Gió:

Blog Phạm-Hoàng-Tùng:

Blog Phạm-Viết-Đào:

Chết Bởi Trung Cộng:

Diễn-Đàn Thảo-Luận Về Tình-Hình Việt-Nam:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu

Human Rights Vietnam - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tư-Tưởng Phật-Giáo:

Tưởng-Niệm 50 Năm Anh-Hùng Ngô-Đình-Diệm, Anh-Hùng Ngô-Đình-Nhu Vị-Quốc Vong-Thân 1963-2013:

Tưởng-Niệm 50 Năm Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức Tự-Thiêu 1963-2013:

Trang Thơ Văn Mai-Hoài-Thu:

Trang Thơ Văn Minh-Vân:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Chí-Thiện:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Khôi:

Trang Thơ Văn Nguyễn-Thị-Thanh:

Trang TL Nguyễn-Việt Phúc-Lộc:

Trang Nhật-Hồng Nguyễn-Thanh-Vân:

Trang Thơ Văn Phạm-Ngọc-Thái:

Trang Thơ Văn Phan-Văn-Phước:

Trang Thơ Văn Quê-Hương:

Trang Thơ Văn Thanh-Sơn:

Trang Thơ Văn ThụcQuyên:

Trang Thơ Văn Vĩnh-Nhất-Tâm:

Truyện Dài Thời Chiến-Tranh Việt-Nam (Ebooks):

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Văn-Hóa Tộc Việt:

Weblinks:

 

 

Lịch-Sử Việt-Nam Cận Đại

- Cuộc Chiến Tranh Hồ chí minh Đánh Dân Tộc Việt Nam Tập 2 -

lịch sử việt nam, tem thư việt nam

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17

Nhóm Tâm Việt Úc Châu Biên Khảo

(tái bản có sửa chữa)

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010

MỤC LỤC

CHƯƠNG 4
CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH (tt)           trang 05

CHƯƠNG 5
NHỮNG CÂY NGƯỜI HỒ CHÍ MINH TRỒNG         22

CHƯƠNG 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH                                       50     

CHƯƠNG 7
HỒ CHÍ MINH, CON VẸT CỦA STALIN                   80

++++++++++++++++++++++

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
07-2010

Sự thật về vụ án Moscow 1936-1938

Đây là chuyện Hồ Chí Minh đã tự mình vạch bộ mặt vô cùng ghê tởm của ông! Trong quyển Mặt thật, tác giả Bùi Tín cũng khảo sát về những lời chửi bới của Hồ Chí Minh như tác giả Nguyễn Minh Cần. Nhưng Bùi Tín còn trích thêm Lời khuyên của Hồ Chí Minh gởi về cho các đồng chí ở Việt Nam (trang 113): “Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc Bản xử án bọn Trốt kýt ở Liên Xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốt ky và bọn Trốt kýt”.

Lời Khuyên tưởng rằng có thể dạy khôn, nhưng không ngờ Hồ Chí Minh đã xúi dại. Việc đời cứ lặp đi lặp lại y như lời người xưa diễn tả “Gậy ông đập lưng ông” và “Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình”. Bây giờ, đi tìm chân lý trong lịch sử, chúng ta mới biết Stalin đã phản bội cuộc cách mạng và Bản án Moscow hiện nguyên hình là bức bình phong đầy man trá và tàn bạo do Stalin dàn dựng lên để sát hại những người cách mạng chân chính đối lập với ông. Cho nên Bản xử án Moscow đã vạch “bộ mặt vô cùng ghê tởm” không phải của Trotsky mà là của chính Stalin và Tập đoàn của ông trong đó có Hồ Chí Minh.

Nhắc lại lúc Stalin lên cầm quyền thì nền dân chủ trong Đảng đã bị hủy bỏ, Stalin càng trở nên độc tài thì sự chống đối càng quyết liệt. Cánh Tả đối lập thành hình do hàng ngàn đảng viên cùng lên tiếng chống đối việc hủy bỏ nền dân chủ Liên Xô, việc cưỡng bách tập thể hóa, kế hoạch ưu tiên phát triển kỹ nghệ (Một dẫn chứng: dùng võ lực tàn bạo tận thu thóc lúa của nông dân để xuất cảng 18 triệu tạ thóc lấy ngoại tệ nhập cảng máy móc, gây nên nạn đói giết chết 6 triệu nông dân), cùng sự hưởng đặc quyền đặc lợi của các Quan chức đỏ… Giáo sư Vadim Z. Rogovin, một sử gia chuyên về lịch sử nước Nga thời Liên Xô, có bài thuyết giảng tại Đại học Melbourne ngày 18-5-1996 về đề tài Cơn Đại khủng bố của Stalin: Nguyên nhân và hậu quả (Quyển Two lectures, ấn quán Labour Press Books, Sydney, 1996). Giáo sư Rogovin có đề cập đến Cương lĩnh Riutin (Riutin Platform), một bản văn 100 trang tương tự như Nhật ký Rồng rắn 88 trang của tướng Trần Độ. Riutin nguyên là đảng viên Bolshevik đã từng ủng hộ Stalin ở thập niên 20, cũng y như Cựu Trung tướng Trần Độ đã từng ủng hộ Hồ Chí Minh. Sau cùng vì nhận xét chính sách của Stalin sai lầm trên nhiều mặt, Riutin tìm cách liên minh với cánh Tả đối lập, với những người Trotskysts. Nhóm Riutin phát hành Cương lĩnh nêu rõ những khủng hoảng về kinh tế và chính trị đang xảy ra khắp nước và trên mọi khía cạnh. Stalin sợ phong trào chống đối lan rộng nên không cho phổ biến Cương lĩnh trong Chính trị bộ và ra lịnh khai trừ Riutin, đồng thời phát động một cuộc tàn sát địch thủ chính trị khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Đó là cuộc Đại Khủng bố, hay Đại Thanh trừng.

Viết về Đại Khủng bố hay Đại Thanh trừng, giáo sư Rogovin tường thuật rằng đó là một biến cố độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người: “Hàng trăm ngàn người bị bắt giam vào ngục, bị tra tấn dã man, bị bắt phải thú nhận những tội mà họ không hề phạm, rồi bị thủ tiêu hoặc bị lưu đày trong những trại tập trung Gulag ở khắp Liên bang Xô viết.” Trong cùng thời gian đó, hàng ngàn người Trotskyist, vốn là đảng viên cao cấp tài năng đang bị giam cầm hoặc bị lưu đày, phải viết bản tự khai tự kiểm để được phục hồi địa vị. Giáo sư Rogovin thuật lại rằng Stalin cho triệu hồi về Moscow hàng tá và hàng tá những người đối kháng, định đưa ra xử trong Phiên toà Đầu tiên năm 1936. Stalin ra lịnh bảo họ viết Bản Tự thú về những tội họ không hề làm, nhưng không người nào chịu viết, do đó họ bị thủ tiêu trong lần hỏi cung trước khi bị đem ra xử. Trong Phiên tòa Thứ nhất, hai bị cáo là ZinovievKamenev bị kết tội âm mưu với ngoại bang để lật đổ chính phủ và bị xử tử vào tháng 8 năm 1936. Trong Phiên tòa Thứ hai năm 1937, Radek bị kết án 10 năm tù về tội phản động, nhưng đã chết trong tù năm 1939. Trong Phiên tòa Thứ ba ngày 13-3-1938, hai bị cáo RykovBukharin bị kết tội làm gián điệp cho nước ngoài để lật đổ chánh quyền và bị xử tử ngày 14-3-1938.

Giáo sư Rogovin, căn cứ vào nguồn sử liệu xác đáng, đã viết rằng trong suốt thời Xô viết ở Nga, có khoảng 4 triệu người bị kết án chống Chính phủ, trong số đó bị xử bắn từ 700.000 đến 800.000 người. Để cảm nhận sự khiếp đảm trong thời Đại Khủng bố, chỉ trong hai năm 1936 và 1938, Stalin đã đưa ra “pháp trường cát” để xử bắn một số tử tội 6 lần nhiều hơn so với trọn cả thời gian lịch sử Xô viết. Hơn nữa, kể từ 1953 là năm Stalin từ trần, trong 40 năm sau đó gần như không có tội phạm chính trị nào bị xử bắn cả! Và cũng thật may mắn cho nước Nga, một cơn Khủng bố mới đang được Stalin chuẩn bị để phát động thì liền bị các người kế vị của ông dập tắt ngay sau khi ông chết!   
Đến năm 1988 dưới thời Gorbachev, Tối cao Pháp viện Xô viết cứu xét lại các vụ án 1936-1938 và huỷ bỏ tất cả các phán quyết. Các phán quyết được huỷ bỏ, các bị cáo kể như được trắng án, thì ra Stalin đã đạo diễn các phiên toà theo lối chuyên chính phi pháp chỉ để giết người hữu công vô tội. “Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc Bản xử án bọn Trốt kýt ở Liên Xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốt ky và bọn Trốt kýt”, Lời Khuyên của Hồ Chí Minh như vậy tất nhiên đã vạch bộ mặt vô cùng ghê tởm của Tập đoàn Stalin và của chính mình! Tưởng rằng dạy khôn, không ngờ Hồ Chí Minh đã xúi dại!

Cuộc Đại Thanh trừng trong Hồng quân

Chúng ta đã biết Stalin là người rất đa nghi như việc Hồ Chí Minh có xin Stalin ký tên vào một tạp chí, nhưng sau đó Stalin sai mật vụ lẻn vào phòng Hồ Chí Minh đánh cắp tờ tạp chí ấy lại. Việc Hồng quân Liên Xô trải qua biến cố Đại Thanh trừng năm 1937 cũng do tánh đa nghi của Stalin mà ra! Chuyện kể vào 15-5-1937, Stalin nhận được từ cơ quan Phát xít Đức Quốc xã qua trung gian tòa Đại sứ Nga ở Tiệp Khắc những Bức thư giả tạo của Thống tướng Tukhatchevski trao đổi với các nhân viên cao cấp của Bộ Chỉ huy Đức. Điều uẩn khúc trong vụ án này là do đâu mà có các Bức thư giả tạo đó? Đó là một nghi vấn lớn. Chúng ta sẽ rất phân vân khi biết rằng “Các cơ quan Đức cũng bị cơ quan mật vụ NKVD của Liên Xô lũng đoạn” như quyển Hắc thư cề chủ nghĩa Cộng sản tiết lộ (trang 292). Bất luận oan ưng thế nào, Thống tướng Tukhatchevski, người có công hiện đại hóa Hồng quân và lúc đó đang giữ chức Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng, ông cùng 7 vị tướng lãnh cũng đã bị kết án tử hình về tội phản bội và gián điệp và bị hành quyết ngày 11-6-1937.

Trong vòng 2 năm, từ 1937 đến 1938, cuộc Đại Thanh Trừng trong Hồng Quân đã loại:

- 3 trong số 5 Thống tướng
- 13 Đại tướng trong số 15 người
- 8 Đô đốc Hải quân trong số 9 người
- 50 Tướng Quân đoàn trong số 57 người
- 154 Tướng Sư đoàn trong số 186 người
- 16 Chính ủy cấp Quân đội bị loại tất cả
- 25 Chính ủy cấp Quân đoàn trong số 28 người

Tổng kết cuộc Đại Thanh trừng trong Hồng quân, quyển Hắc thư ước tính (trang 292) “khoảng 30.000 sĩ quan trên tổng số 178.000 người và cho rằng trong chiến trận giữa Nga và Đức, cuộc Đại Thanh trừng nhất là ở các cấp cao đã là một sự thua thiệt nặng nề cho Hồng Quân”. Về phần Thống tướng Tukhatchevski, đến thời Tổng bí thư Khruschchev, thì uy tín ông dần dần được phục hồi và đến năm 1961, ông được Tòa án phán quyết hủy bỏ tội danh “Phản bội và gián điệp” mà Stalin gán cho ông!

Bình luận về biến cố “Gậy ông đập lưng ông - Quân ta giết quân mình” xảy ra cho Hồng quân Liên Xô, Vũ Cao Quận có nhận xét (Trích quyển Gửi lại trước khi về cõi, xuất bản năm 2006, trang 49): “Dù chiến tranh khốc liệt đến mấy, kẻ thù của chủ nghĩa Mác cũng không thể tiêu diệt có hiệu quả và khủng khiếp các lãnh tụ, tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp cùng là đồng chí trong phe chủ nghĩa xã hội như Stalin và Mao đã đối xử tàn bạo với các “đồng chí” của mình. Suốt mấy nghìn năm lịch sử chưa có cuộc tự hủy diệt nội bộ nào lớn hơn những vụ do chính các “học trò vĩ đại nhất” của Mác đã làm. Tội ác trời không dung đất không tha trên không thấy nêu ai phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Kỳ lạ thật!”

Lời bình luận của nhà Nghiên cứu Nguyễn Minh Cần, tuy ngắn gọn hơn, nhưng nói lên được tính chuyên quyền và nghi kỵ của Stalin cùng sự thanh trừng sâu sát của chế độ. Trong quyển “Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong Phong trào Cộng sản Quốc tế”, quyển nghiên cứu rất công phu mà tác giả khiêm tốn chỉ gọi là bài, tác giả Nguyễn Minh Cần viết (trang 47): “Stalin đã tiêu diệt đảng Cộng sản của Lênin và dựng lên đảng Cộng sản của mình”

Bạn đọc thân mến ơi, xin hãy “trông người mà nghĩ đến ta”, cuộc Đại Thanh trừng Hồng quân ở Liên Xô rùng rợn như thế đấy, cuộc CCRĐ ở vùng đất sông Hồng nào có thua kém ai đâu, khủng khiếp hơn là đằng khác! Người viết xin được viết lại lời của Người Lính Già Vũ Cao Quận: “Tội ác trời không dung đất không tha này không thấy nêu ai phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Kỳ lạ thật!”

Lấy tên Hồ Chí Minh đặt cho Sài Gòn

Sau khi chiếm trọn miền Nam 30-4-1975, Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1976 đã làm y như đàn anh Liên Xô đã làm vào năm 1924 và 1925. Năm 1924 sau khi Lênin từ trần, Liên bang Xô viết đã thay tên Petrograd thành tên mới là Lêningrad để tôn vinh Lênin. Qua năm sau là năm 1925, thừa thắng xông lên, Stalin “nấu chè xôi” sửa tên thành phố Volgograd thành Stalingrad để tự tôn vinh mình mà không kịp chờ cho đến khi qua đời! Thì ra những “Chủ tịch đảng Cộng sản tự xưng là Kách mệnh” mà cũng hành xử như các bậc vua chúa thời phong kiến và cũng muốn tên tuổi mình trường tồn với thời gian theo lối “Thánh thượng vạn vạn tuế” ngày xưa.

Đàn anh Liên Xô tôn vinh Lênin và Stalin thì đàn em Cộng sản Việt Nam không dại gì mà không tôn vinh Hồ Chí Minh! Con vẹt của Stalin mà lại! Cho nên đến năm 1976, Cộng sản Việt Nam cũng “nấu chè xôi” hủy bỏ tên Sài Gòn, tên đã có lịch sử 300 năm, để đặt cho tên mới là Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng Thiên bất dung gian, tên tuổi của những tên đồ tể Cộng sản Liên Xô cùng chế độ thối tha của chúng lập ra nào có trường tồn được đâu! Đến năm 1961, Stalingrad trở lại thành tên cũ là Volgograd và đến năm 1991, sau khi khối Cộng sản Đông Âu và Liên bang Xô viết sụp đổ, thì Lêningrad, thành phố mang tên Lênin trở lại thành Petrograd như xưa! Đây Bảng tổng kết về tuổi thọ:

Liên bang Xô viết:            1917–1991 = 74 năm
Thành phố Lêningrad:     1924–1991 = 67 năm
Thành phố Stalingrad:     1925–1961 = 36 năm

Chế độ Xã hội chủ nghĩa mà người Cộng sản xưng tụng là dân chủ hơn chế độ tư bản gấp triệu lần, tại sao mà yểu mệnh như vậy!? Làm sao mà dám sánh với tuổi thọ của những “Ông Già Ba Tri” ở tỉnh Bến Tre của Việt Nam được tiếng là trường thọ! Lại càng không thể sánh với chế độ tư bản tôn trọng dân chủ và nhân quyền của các nước Anh, Pháp, Mỹ… Cựu đại tá Trần Văn Kha, cựu sinh viên khóa 5 Võ bị Đà Lạt (khóa Hoàng Diệu), bàn về sự sụp đổ của Xã hội chủ nghĩa như sau: “Liên bang Xô viết và các nước Đông Âu tan rã không phải vì dân nổi loạn, mà vì cấp lãnh đạo Cộng sản kịp nhận ra rằng ý thức hệ Cộng sản sẽ đưa quốc gia của họ đến chỗ diệt vong, nên họ đã đào lỗ chôn Cộng sản.”Đại tá Kha nhận xét như trên với báo Giao Điểm năm 1993 và lặp lại Lời tuyên bố đáng tự hào của Gorbachev về Cộng sản và tư bản. Lời Tuyên bố lịch sử đó như sau: “Ba mươi năm sau khi Nikita Khrushchev đoán rằng Cộng sản sẽ chôn vùi tư bản, thì tôi, Gorbachev nói rằng Cộng sản đang tự chôn chính mình.

Rõ ràng chưa! Thiên bất dung gian! Những thứ mang nhãn hiệu Cộng sản mất nhân tính, thất nhân tâm, phản tiến bộ, phản cách mạng, phản nhân loại có bền được đâu! Chúng ta chờ xem Thành phố Hồ Chí Minh mang tên xác chết đến năm nào mới chết để cho tên Sài Gòn được sống mãi muôn đời!

Chuyện Stalin chết mấy lần?

Nếu chúng ta trở lại thập niên 20, 30 hoặc 40 và liệt kê những lời chúc tụng và ca ngợi Stalin, chúng ta mới hiểu được Sách lược thần thánh hóa lãnh tụ của Cộng sản! Tác giả Trần Văn Kha đã lược thuật bài báo nhan đề Thượng Đế đã chết, Stalin muôn năm của 2 tác giả Branko Lazitch và Christian Jelen đăng ở L’Express ngày 4-3-1983 trong tác phẩm Tranh đấu do tác giả tự xuất bản năm 1987. Những lời ca tụng Stalin được tác giả Trần Văn Kha liệt kê trong quyển Tranh đấu (trang 131) như sau:

Vinh dự muôn năm cho Stalin vĩ đại
Nhà dìu dắt bất diệt của nhân loại
Ánh sáng của chúng ta
Nhà xây dựng vĩ đại chủ nghĩa Cộng sản
Người kế tục tài ba của Marx, Engels và Lênin
Đại vĩ nhân của mọi thời đại
Nhà tư tưởng vĩ đại, nhà hành động vĩ đại
Vị thầy không ai có thể so sánh được của chủ nghĩa khoa học Mác xít
Bộ óc mạnh mẽ nhất của thời đại
Chúa tể của các dòng sông
Nguồn gốc ánh sáng và năng lực của chúng ta
Người bạn tốt nhất của Do Thái
Sự khôn ngoan, vinh dự, và lương tâm của thời đại
Người lèo lái
Một khối óc thông minh tuyệt vời, giải đáp mọi thắc mắc của thời đại
Một khối óc thiên tài, gom góp được tất cả mọi kinh nghiệm tranh đấu của vô sản từ 100 năm nay

Mặt trời của Sự Thật

Cầu vồng của nhân loại Cộng sản

Đó là những lời ca ngợi Stalin khi ông còn sống, tác giả Trần Văn Kha đoan chắc rằng còn thiếu sót rất nhiều. Đến khi Stalin chết ngày 5-3-1953 thì sự ca tụng ông lên đến tuyệt đỉnh vì ông được thần thánh hóa đến mức ngang hàng với Thượng Đế. Cho nên các tín đồ không thể tin được rằng Thượng Đế của họ có thể chết được! Từ khắp nơi trong thế giới Cộng sản vang lên những bài thơ cùng điếu văn thương khóc Thượng đế Stalin của họ! Tờ Nhân Loại (L’Humanité) phát hành ở Mạc Tư Khoa ngày 9-3-1953: “Một con sông mới trong sạch, làm bằng nước mắt của hàng trăm triệu người khóc, trên khắp vũ trụ, trong những ngày đau đớn này.”Ở Budapest, thủ đô Hung Gia Lợi, phụ họa theo: “Nước mắt tràn ngập trên mặt toàn thể dân chúng Hung. Không một con đê nào có thể ngăn chận những giọt nước mắt đau đớn ấy.

Lẽ tất nhiên, chế độ Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh cũng không bỏ lỡ cơ hội thương khóc Thượng đế Stalin để lấy điểm. Hồ Chí Minh ra lịnh cho cả nước phải để tang và thi sĩ Tố Hữu đóng góp bài thơ Đời đời nhớ Ông có những câu như sau:
………………
Sta-lin! Sta-lin!
            Yêu biết mấy, nghe con tập nói
            Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin
……………………………..
Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!
            Hỡi ôi Ông mất! Đất trời có không?
            Thương cha thương mẹ thương chồng
            Thương mình thương một thương Ông thương mười!

Về bài thơ Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu, trong quyển Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, nhà sưu tầm Mạc Định viết: “Lời thơ của ông rất hay, nhưng vì ông chuyên dùng ý thơ để ca tụng lãnh đạo nên cũng như những loại thơ ca tụng khác, độc giả cảm thấy tinh thần thấp hèn của người làm thơ. Người làm thơ tuy có “tinh thần thấp hèn” thật, nhưng sau khi sáng tác bài thơ vào tháng 5-1953 thì qua năm 1954, ông không còn là Ủy viên dự khuyết nữa mà đã trở thành Ủy viên Trung ương thực thụ! Có câu chuyện được kể sau ngày 30-4-1975 domột trại viên học tập cải tạo. Anh thuật rằng ở trong tù anh em chuyền tay nhau đọc thi tập của Tố Hữu. Nhưng ấn bản đó không còn có bài thơ ca ngợi lãnh tụ Stalin và bài thơ nâng bi bác Hồ nâng bi bác Mao một cách trâng tráo mà Đảng không còn muốn phổ biến nữa. Không có thì anh em làm cho có: anh em chép tay thêm vào và giấu ở cuối cuốn sách. Hóa ra đó là những bài thơ anh em rất thích và chuyền tay nhau để đọc. Đảng Cộng sản Việt Nam không còn muốn ca ngợi lãnh tụ Stalin nữa, thì bài thơ Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu kể như bị khai tử! Đảng bỏ bài thơ đó thật đúng bởi vì bấy giờ người dân miền Nam gọi nó là Bài thơ bợ đít Xít-Ta-Lin. Miền Bắc nói “nâng bi, miền Nam nói “bợ đít”,cả hai đều là tiếng Việt.

Theo tác giả Trần Văn Kha, nhà Đại Độc tài Liên Xô Stalin đã chết 2 lần (trang 138 sđd):
1- Stalin con người chết năm 1953
2- Stalin Thượng đế chết năm 1956
Để phụ họa theo, chúng ta có thể kể thêm Stalin chết lần thứ 3 và lần thứ 4:
3- Stalingrad, thành phố mang tên Stalin chết năm 1961
4- Bài thơ “Khóc Stalin” của Tố Hữuchết sau năm 1975!

Đến bây giờ là năm 2007, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam hiểu được “Dân vi quý”, hiểu được “Ý Dân là ý Trời”, hiểu được “thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”, cũng như Đảng đã hiểu và tự khai tử bài thơ khóc Stalin Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu, thì Đảng nên hiểu và tự khai tử tên Thành phố Hồ Chí Minh để trả tên Sài Gòn lại cho Dân tộc. Cái gì của Dân tộc thì trả lại cho Dân tộc, Đảng có mất mát chi đâu! Đảng chiếm đoạt làm chi cho bị mang tiếng! Đảng mà sáng suốt như vậy thì là thượng sách.

Bằng không được như vậy, khi Liên Xô ca ngợi Stalin thì Việt Cộng ca ngợi Hồ Chí Minh, khi Liên Xô hạ bệ Stalin thì Việt Cộng hạ bệ Hồ Chí Minh, cứ theo thói quen làm con vẹt bắt chước y như Liên Xô, không cần biết “thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong” gì cả, chỉ cần biết bắt chước như con vẹt thôi thì cũng có thể gọi là trung sách được.

Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, những “kẻ sáng Đảng mà mù tình Dân tộc” đã bị lỡ chuyến tàu lịch sử rồi, nên không còn có thể hành xử theo thượng sách hay trung sách gì nữa cả. Bây giờ cũng không còn hạ sách nữa mà chỉ có thất sách mà thôi! Khi Linh mục Nguyễn Hữu Lễ phất cao ngọn cờ chính nghĩa PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN phát động khắp cả năm châu làm phấn khởi lòng người dân Việt khắp nơi nơi, quốc nội cũng như quốc ngoại, thử xem đảng Cộng sản Việt Nam hay đúng hơn Bộ Chính trị với hơn 100 Ủy viên tìm phương cách nào để ứng xử với Dân tộc 80 triệu người cho thuận tình nghĩa và hợp đạo lý.

Chuyện ba người tù

Đây là câu chuyện bàn về ba chế độ lao tù khác nhau để cho chúng ta biết rõ thêm về Xã hội chủ nghĩa và Chế độ lao tù do Hồ Chí Minh xây dựng. Người tù thứ nhất là Hồ Chí Minh bị bắt ở Hương Cảng và ở Liễu Châu. Người tù thứ hai là Tạ Thu Thâu bị Pháp bắt giam ở Khám Lớn và Côn Đảo. Nhưng thê thảm nghiệt ngã nhất là người tù thứ ba, là nhà sư Tuệ Minh bị chế độ Hồ Chí Minh bắt giam và hành hạ đến chết trong tù.

Người tù thứ nhất: Hồ Chí Minh

Trong cuộc đời làm “Kách mệnh”, Hồ Chí Minh bị bắt ở tù hai lần. Lần đầu, Hồ Chí Minh bị chính quyền Anh bắt ở Hương Cảng ngày 5-6-1931, và đến đầu năm 1932, sau 6 tháng bị giam thì Bác được phóng thích. Hãy xem lại lịch sử đến thời điểm đó Bác đã hoàn thành công tác nào cho Đệ tam Quốc tế:

1- Thành lập được đảng Cộng sản Xiêm và đảng Cộng sản Mã Lai,
2- Hợp nhất ba chi phái Cộng sản ở Việt Nam thành đảng Cộng sản Đông Dương,   
3- Thực hiện sách lược Đấu tranh Giai cấp với phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh để thành lập những Xô viết đầu tiên trên đất Việt.

Ngần ấy công lao hẳn Hồ Chí Minh đã lọt được vào biệt nhãn của Stalin nên Đệ tam Quốc tế mới huy động những đảng ngoại vi hết lòng lo cho giải cứu Bác để hòng xử dụng về sau. 

Bác là người tù “có số đẻ bọc điều”. Bác được Đệ tam Quốc tế chỉ thị cho Liên minh Quốc tế Chống chủ nghĩa Đế quốc sách động công nhân tận bên Anh quốc làm áp lực với chính phủ Anh để phóng thích Bác. Đệ tam Quốc tế lại còn chỉ thị cho Hội Cứu tế Quốc tế đỏ mời Luật sư người Anh Frank Loseby biện hộ cho Bác. Bác chỉ ở tù 6 tháng. Trong lần vào tù ra khám ở Hương Cảng nầy, điều gì cần giấu thì Bác giấu, việc nào cần khoe thì Bác khoe.

Hãy xem Bác khoe qua miệng lưỡi của Trần Dân Tiên:

“Mỗi ngày hai lần, chúng cho ông ăn cơm gạo sấy và mắm thối. Mỗi tuần hai lần, chúng cho ông ăn thịt bò, cơm trắng. Thật là một bữa tiệc sang… Những buổi bị đưa đi hỏi cung là những lúc nghỉ ngơi khoái nhất ở trong tù. Một là được ra khỏi xà lim được một lúc, cái xà lim nghẹt thở, tối om và hôi hám. Hai là vì bọn trùm mật thám thường hỏi cung ông, mời ông hút thuốc lá Anh.”

Khi Bác bị bịnh, chúng đưa Bác vào bịnh viện ngay: “Ông có một cái giường tốt và được ăn cơm tây. Ông nói cả đời chưa bao giờ Nguyễn được ăn uống sung sướng như thế này.”

Người tù Hồ Chí Minh thật tốt số. Ngồi tù ở Hương Cảng bên trời Đông, mà các công nhân Anh Quốc tận Thái Tây bên Luân Đôn biểu tình làm áp lực chính phủ Anh để ủng hộ ông. Đó là điều Hồ Chí Minh cần giấu. Nếu ông không phải là Quốc tế ủy được Stalin đào luyện để xử dụng về sau, thì làm sao ông nhận được sự ưu ái như vậy. Thảo nào ông đã bỏ Dân tộc để cúc cung tận tụy phục vụ Quốc tế Cộng sản và Stalin.

Lần ở tù thứ 2, từ hang Pắc Bó đi sang Tàu vào tháng 8-1942, Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29-8-1942 và bị giải về giam trong hang đá Độc Đăng Sơn ở Liễu Châu. Ông bị bắt vì ông đã mang trong mình ba thứ Chứng minh thư của các cơ quan thông tin tuyên truyền của Trung Cộng đã bị Chính quyền Dân quốc của Tưởng Giới Thạch đóng cửa. Hơn nữa, người dẫn đường ông trên đất Trung Hoa lại là một cán bộ Trung Cộng nằm vùng không có Chứng minh thư. Ông bị tình nghi là Cộng sản và gián điệp của Nhật. Lần nầy, Hồ Chí Minh cũng gặp may mắn nhờ sự phát giác của một đảng viên VNQDĐ là Lý Thái Thư (Trích bài Một thoáng mong manh còn nhớ mãi để tưởng niệm 50 năm ngày mất của nhà văn Khái Hưng 1947-1997, tác giả L ý Thái Thư, bài đăng trong Đặc san Việt Quốc, VNQDĐ Xứ bộ Úc Châu, Khu bộ Victoria xuất bản). Khi gặp Lý Thái Thư vào trong hang động Độc Đăng Sơn thăm mình, Hồ Chí Minh lúc đó mang tên Lý Thụy mừng rỡ, tha thiết cầu khẩn: “Vì tình đồng hương, đồng bào ruột thịt, năn nỉ với Tổng hội can thiệp dùm, vì trong chiến tranh Hoa-Nhật, chính phủ Trung Quốc có quyền nghi ngờ hết thảy và gán cho mọi người là CS hoặc làm gián điệp… Vậy quý ông trình bày dùm cho. Ơn ấy chúng tôi chẳng bao giờ dám quên…”

Lý Thái Thư về báo cáo với Chủ tịch Trương Bội Công và cụ Nguyễn Hải Thần là những vị lãnh đạo Tổng hội VNCMĐMH, và nhờ sự bảo lãnh của hai vị này, Hồ Chí Minh tức Lý Thụy được thả ngày 10-9-1943. Tính ra Hồ Chí Minh bị giam giữ 12 tháng 12 ngày. Trong lần ở tù này, ông được quản lý theo chế độ nghi can chính trị, có thể đọc sách báo, ăn uống đầy đủ, và không bị lao dịch. Ông hẳn là một người tù tốt số, bị bắt ở tù hai lần mà lần nào cũng gặp quới nhân trợ giúp và được hưởng chế độ lao tù thật tốt đẹp.

Người tù thứ hai: Tạ Thu Thâu  

Nhà cách mạng Tạ Thu Thâu là người tù thứ hai trong câu chuyện. Ông không tốt số như Bác vì ông là tù nhân của Thực dân Pháp. Một cách sơ lược về cuộc đời tù tội của Tạ Thu Thâu: ông bị Pháp bắt tất cả 7 lần, 30 lần ra tòa trong đó có nhiều lần ông tự biện hộ bằng tiếng Pháp thật điêu luyện, 3 lần tuyệt thực để phản đối, có lần tuyệt thực dài 12 ngày (vụ tuyệt thực của ông thánh Gandhi ở Ấn Độ chỉ dài 8 ngày), có lần bị phạt 500 quan tiền vạ. Lần ở tù sau cùng, ông bị tiêm một mũi thuốc gây cho ông mê man bất tỉnh trong hai ngày và do đó cánh tay phải của ông bị hoàn toàn tê liệt cho đến ngày chết. Tác giả Phương Lan viết về mảnh hình hài còn sót lại của Tạ Thu Thâu sau một đời làm cách mạng:

Nhiều lần vào tù ra khám như bao nhiêu người dân yêu nước. Rồi lần ở tù chót, bị chích tê liệt cả thân người, được Pháp thả về nhà, sống với thân hình tàn phế, tay chân rút co quắp lại, sống một cách khổ sở, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm, chỉ nằm chờ ngày chết, không còn năng lực gì nữa.”

Có một nhân chứng là Nguyễn Văn Thiệt tường thuật những giây phút cuối cùng của Tạ Thu Thâu. Lúc đó anh Thiệt đi xe lửa tới Quảng Ngãi thì phải ngừng lại nghỉ đêm. Trong lúc ngồi ở quán nước, hỏi thăm bà bán quán về người bạn tên Lê Xán là một người yêu nước theo cụ Phan Bội Châu, bị Pháp bắt đày đi Lao Bảo. Không ngờ khi Pháp thả ra, thì Lê Xán bị Việt Minh bắt lại và bị xử tử. Anh Thiệt vì muốn biết tin bạn nên cũng bị Việt Minh bắt và bị buộc tội “đến Quảng Ngãi để giải vây cho Lê Xán.” Nhờ thế, anh là chứng nhân và viết được bài Tôi thấy Tạ Thu Thâu chết (đăng trong quyển Người Việt ở Pháp 1940-1954 do tác giả Đặng Văn Long sưu tầm, trang 477). Theo lời anh Thiệt thì Ủy ban tỉnh Quảng Ngãi cũng không biết Tạ Thu Thâu bị tội gì, chỉ nhận được điện tín của Trần Văn Giàu đánh ra cho các tỉnh ra lệnh gặp Tạ Thu Thâu thì bắt. Khi Ủy ban tỉnh báo cho Trần Văn Giàu đã bắt được Tạ Thu Thâu thì Giàu ra lịnh hãy xử tử. Khi đem ra sát trường thì Tạ Thu Thâu trần tình cùng mấy người lính. Ông nói hay và đúng quá nên không ai nỡ bắn, có người còn cảm động rơi lệ nữa. Lại đánh dây thép về Sài Gòn hỏi xem có giết lầm không. Và đã hai lần như thế, Trần Văn Giàu đánh dây thép ra bảo giết. Theo lời anh Thiệt, đến lúc đó họ nhận được lệnh riêng của Cụ Hồ ở Hà Nội điện vô khiển trách Ủy ban bất tuân thượng lệnh. Nhưng đội hành quyết vẫn động mối từ tâm không nỡ bắn. Anh Thiệt thuật lại rằng anh mừng đến rơi lệ khi họ dẫn Tạ Thu Thâu về, nhưng liền sau đó “một người trai trẻ mặc áo nâu quần sọt trắng ra vẻ học trò, tuổi lối mười bảy, mười tám, hung hăng nhảy ra, rút cây dao găm dắt ở lưng đâm vào vai Tạ Thu Thâu, miệng vừa hét “Đồ Việt gian phản động”, rồi đạp Tạ Thu Thâu vào bụng cho ngã quay ra đất, đoạn đấm đá túi bụi.” Mắt anh Thiệt đẫm lệ nên không thấy được tường tận nhưng còn nhớ hình ảnh của một đám đông người bao quanh một bóng trắng đang quằn quại giữa vũng máu và nghe giọng the thé rất trong của người thiếu niên: “Các đồng chí hèn quá, một thằng Việt gian cũng không dám giết.

Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ cũng tường thuật tương tự như thế trong sách của bà (trang 440): “Thâu từ Huế vào Quảng Ngãi thì bị bắt tại Sông Vệ, thuộc quận Tư Nghĩa. Khi Thâu vừa để chân đến đấy, là cán bộ địa phương hay liền Thâu là thành phần Đệ tứ Quốc tế, họ báo động với nhau, và liền bủa vây bắt ngay Thâu, giải ra xã Ba Lá, ở phía bắc Sông Vệ, giao cho cấp lãnh đạo tỉnh là Tư Ty. Tư Ty ra lịnh chém.”

“Như lời các chứng nhân kể lại, Thâu binh vực mình, Thâu thuyết phục rằng mình vô tội, mình có công hơn là có tội. Không ai chịu ra tay giết Thâu cả. Có người mắt ven tròng rướm lệ là khác. Hai lần như thế, đi không về không. Tới lần thứ ba, cũng thế, đội hành quyết sững sờ đứng yên, Tư Ty phải tự tay dùng súng lục giết Thâu, một cách hèn nhát là đứng phía sau lưng Thâu bắn tới…

Nhắc lại giai đoạn lúc Thực dân Pháp mới chiếm Nam Kỳ, có biết bao nhà ái quốc tự động nổi dậy chống Pháp, trong số đó có Nguyễn Trung Trực. Ông chỉ huy nghĩa binh đánh quân Pháp nhiều nơi, nổi bật nhất là chiến công đốt phá chiến thuyền Espérance do trung uý Parfait của Pháp chỉ huy vào ngày 11-2-1861 tại rạch Vàm Cỏ làng Nhật Tảo. Nhưng rồi thế cùng lực tận, ông bị bắt ở Kiên Giang, ông nhất quyết không chịu hàng nên bị tử hình ngày 27-10-1868. Người dân thương nhớ và ghi công ông trong câu đối được truyền tụng như sau: “Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa. Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần

Lịch sử ghi lại rằng khi đem ông Nguyễn Trung Trực ra “sát trường”, không một người lính Việt Nam nào chịu ra tay chém ông. Pháp phải ra dùng một đao phủ người Miên mới hành quyết được. Lịch sử là những biến cố thường được lặp đi lặp lại. Sau đó 77 năm, vào “Mùa thu Kách mệnh” của Hồ Chí Minh năm 1945, nhà cách mạng yêu nước Tạ Thu Thâu cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Ba lần mang Tạ Thu Thâu ra “sát trường”, cả ba lần đội hành quyết không đành lòng ra tay giết, mà có người còn khóc vì thương ông nữa. Sau cùng, tên Tư Ty, một cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi mới rút súng bắn ông từ sau lưng. (Xin mở ngoặc, trong đoạn văn nầy người viết dùng chữ sát trường mà không dùng chữ pháp trường, bởi lẽ kẻ hành quyết chỉ có mục đích sát hại chứ không xử theo pháp luật nào cả).

Trên sân khấu lịch sử, tấn tuồng sát hại nhà ái quốc Nguyễn Trung Trực do Thực dân Pháp diễn xuất năm 1868, thì vào “Mùa thu Kách mệnh” năm 1945, đạo diễn Hồ Chí Minh cùng với sự cộng tác của Trần Văn Giàu cũng dàn dựng một vở tuồng y hệch như thế để giết nhà cách mạng yêu nước Tạ Thu Thâu. Trong vở tuồng mới, cũng có những đao phủ xót thương người trung nghĩa nên không chịu ra tay, cũng có tên Việt Cộng Tư Ty rất xuất sắc trong vai đao phủ người Miên ác độc, còn phản tặc Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu đã đóng trọn vẹn lại vai Thực dân Pháp ngày xưa! Đến đây, xin một phút mặc niệm cho nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu bằng đôi dòng hồi tưởng của học giả Nguyễn Hiến Lê trong quyển Hồi của ông. Vào mùa Thu năm 1945, học giả Nguyễn Hiến Lê trên đường tản cư từ Sài Gòn về Long Xuyên, đã nghe tin Phan Văn Hùm bị giết, nên trong Hồi Ký Tập 1 ông viết (trang 318):

“Cũng ngày đó chúng tôi lại được tin Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Nam trên đường từ Huế về Sài Gòn. Tôi xúc động mạnh, vì tôi rất quý ông ta. Ông gốc ở Long Xuyên, du học Pháp về, sống rất giản dị, bình dân, khắp thành phố không ai không vừa trọng vừa yêu, nhất là giới thợ thuyền. Căn nhà của ông ở gần Cầu máy, một khu lao động, tuy bằng gạch, nhưng nhỏ, hẹp, xấu xí”.

Xin nhắc lại trong vở tuồng sát hại nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu thủ diễn vai Thực dân Pháp rất xuất sắc. Tạ Thu Thâu hiển nhiên là nhà cách mạng yêu nước chống Pháp, nhưng ông lại bị Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu chống và giết hại. Tình trạng “dùi đánh đục, đục đánh săng” đó được tác giả Dennis J. Duncanson trong quyển Government and Revolution in Vietnam diễn tả bằng nhóm từ “almost anti-anticolonial”. Theo văn phong của tác giả Duncanson thì Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng Cộng sản để chống những người yêu nước chống Thực dân Pháp. Dưới bàn tay ác độc của Hồ Chí Minh, những người con thân yêu của Đất nước như Tạ Thu Thâu và biết bao nhà ái quốc khác nữa bị sát hại như vậy. Suy ra, không những Hồ Chí Minh đã làm Con vẹt của Stalin, mà ông còn làm lợi cho Thực dân Pháp nữa.

Người tù thứ ba: nhà sư Tuệ Minh 

Người tù thứ ba là sư Tuệ Minh, người tù của Việt Minh Cộng sản, một người tù vô cùng bất hạnh như số phận Dân tộc Việt Nam dưới chế độ Hồ Chí Minh. Xin nhắc lại Việt sử đời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành truyền ngôi cho con thứ ba là Thái tử Lê Long Việt. Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị em là Long Đĩnh sát hại. Giết anh xong, Lê Long Đĩnh lên làm vua và trở thành vì vua tàn ác nhất trong lịch sử. Ông trị vì chỉ có 4 năm (1005-1009) thọ 24 tuổi. Xin trích Việt Nam Sử Lược của tác giả Trần Trọng Kim:

“Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt Trụ ngày xưa. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù phạm phải hình, thì bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làm những điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ rồi thỉnh thoảng giả tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế lấy làm vui cười.

Một ngàn năm trôi qua nhanh. Nước ta trải qua nhiều triều đại: Lý, Trần, Lê, Hồ, Hậu Lê với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đến nhà Nguyễn Tây Sơn ngắn ngủi và sau cùng là nhà Nguyễn Phúc của vua Gia Long. Biết bao vị minh quân tài ba đức độ, võ công hiển hách thay nhau trị vì để bảo vệ biên cương, mở mang bờ cõi, chỉnh đốn việc cai trị, phát triển Văn học…

Đến đời nhà Lý, vua Lý Thái Tổ dời đô về thành Thăng Long để được rộng rãi mà phát triển. Vua Lý Thái Tông ra lịnh cấm mua hoàng nam làm nô lệ (hoàng nam là thanh niên từ 18 tuổi trở lên). Vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu để thờ đức Khổng Tử và các bậc tiên hiền. Vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam Trường và thiết lập Quốc Tử Giám và bổ những người Văn học vào dạy.

Đời nhà Trần võ công thật là hiển hách. Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái Học Sinh (như Tiến sĩ) và khoa thi Tam Giáo (Nho, Thích, Lão) và có công phá tan được cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Mông Cổ. Đến đời vua Trần Nhân Tông, quân Mông Cổ lại hai lần đem quân sang đánh nước ta, nhưng đều bị bại dưới tay đức Trần Hưng Đạo.

Đời nhà Lê, vua Lê Thái Tổ định phép Quân Điền để lấy công điền công thổ mà chia cho mọi người từ quan đại thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng khiến cho sự giàu nghèo trong nước khỏi chênh lệch lắm. Vua Lê Thái Tông cho mở khoa thi Tiến sĩ và cho khắc tên những người thi đỗ vào bia đá. Khởi đầu từ đó, các Tiến sĩ được khắc tên vào bia ở Văn Miếu. Vua Lê Thánh Tông cho lập nhà Tế Sinh để nuôi dưỡng những người đau yếu. Về việc sửa sang phong tục, nhà vua đặt ra 24 Điều Lễ Nghĩa dạy dân để chấn hưng đạo đức. Về việc canh nông, nhà vua đặt quan để trông coi việc cày cấy, tìm những đất bỏ hoang và đốc dân phu khai khẩn. Ngài lập ra cả thảy 42 Sở Đồn Điền, khiến cho dân thoát khỏi cảnh đói khổ. Nhà vua lại sai quan nghiên cứu luật pháp đời Chu, đời Đường bên Tàu và sửa chữa lại cho phù hợp với xã hội của ta làm thành bộ Lê Triều Hình Luật, tức là bộ luật đời Hồng Đức. Đây là bộ luật được các luật gia theo Tây Học ngày nay đề cao là rất cấp tiến và dân chủ: một điểm son trong Lịch Sử Tư Pháp Việt Nam.

Dưới đời Hậu Lê, ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Giang cho khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi và cấm không cho mua sách in bên Tàu nữa. Chúa Trịnh Cương cho hũy bỏ điều luật chặt các ngón tay trỏ hoặc bàn tay để đổi thành tội Đồ, tức là tội lưu đày ở các châu xa mà các tội nhân được giữ vẹn cơ thể. Chúa Trịnh Cương lại cho mở Võ Trường để dạy võ, mùa xuân mùa thu thì dạy võ nghệ, mùa đông mùa hạ thì học võ kinh. Chúa Trịnh Doanh cho lập Võ Miếu để thờ Tôn Võ Tử, Quản Tử, đức Hưng Đạo Đại Vương… , cứ Xuân Thu hai kỳ tế lễ. Đến đời nầy, đất nước ta có cả Văn Miếu lẫn Võ Miếu.

Trong khi các chúa Trịnh giữ vững biên cương ở phía Bắc, thì các chúa Nguyễn ở Đàng Trong lo mở mang bờ cõi về phương Nam, công nghiệp thật là quan trọng. Các vì chúa đã vô cùng khôn khéo trong việc chiêu mộ những người nghèo khổ ở trong nước đưa đi khai khẩn những vùng đất phì nhiêu bỏ hoang, chính sách thu phục và phong chức cho các cận thần của Chiêm Thành, và nhất là sự tiếp nhận ưu ái các thuyền nhân trung thành của nhà Minh trốn chạy sự thống trị của nhà Mãn Thanh và cho phép họ định cư ở vùng đất vừa chiếm được. Từ dinh Ái Tử ở Thuận Hóa là mảnh đất đầu tiên mà Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên vào trấn nhậm (năm 1558), đến chín đời sau là đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (năm 1744), thì lãnh thổ Đàng Trong gồm đến 12 dinh, trải dài đến tận Hà Tiên và Cà Mau bây giờ.

Đời nhà Nguyễn Tây Sơn tuy ngắn ngủi (1788-1802) nhưng võ công thật là hiển hách. Công cuộc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, một chiến công vô cùng oanh liệt trong Việt sử được sánh ngang hàng với chiến công của Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hai lần đánh thắng quân Mông Cổ và cuộc Lam Sơn Khởi Nghĩa trong mười năm đánh đuổi giặc nhà Minh của Bình Định Vương Lê Lợi. Tấm lòng Cầu Hiền của vua Quang Trung khiến nhà vua thân đến núi La Sơn nhiều bận để thỉnh cầu La Sơn Phu tử là vị ẩn sĩ Nguyễn Thiếp ra giúp nước thật là một tấm gương sáng đáng cho các lãnh tụ đời nay noi theo.

Vua Gia Long triều đại Nguyễn Phúc có công thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài, một cuộc Thống nhất thật đẹp. Nhà vua xuống chỉ tha dân một vụ thuế, phong tước cho con cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ giao dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ cúng tổ tiên. Ngài chỉnh đốn việc cai trị, sửa sang phong tục, nghiêm dụ quan lại không được sách nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo giao hiếu với nước Tàu, nước Xiêm, nước Chân Lạp, khiến cho đất nước lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị. Từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy một nước Việt Nam “cường đại” như thế (“cường đại” chữ của sử gia Trần Trọng Kim).

Đọc lại lịch sử một ngàn năm tự chủ, qua nhiều triều đại, biết bao nhiêu nét đan thanh rực rỡ, biết bao nhiêu vị minh quân đức độ cùng bầy tôi lương đống, trong nề nếp văn hóa vàng son, thật xứng đáng làm mẫu mực cho Dân tộc noi gương và tự hào. Tuyệt nhiên chỉ có một hôn quân (xin lặp lại chỉ có một) là vua Lê Long Đĩnh còn gọi là Lê Ngọa Triều là vì vua tàn ác, lấy sự hành hạ giết hại dân kể cả những bậc tu hành, làm trò vui thú để tiêu khiển. May mắn thay, trong một ngàn năm đó, tuyệt nhiên chỉ có MỘT vì vua Lê Ngọa Triều mà thôi. Mãi cho đến 1945, Đất nước không còn vua nữa, nhưng lại quá bất hạnh, nảy sanh CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, tự xưng là “Kách mệnh”, mà lại tàn ác nham hiểm giết hại dân lành gấp trăm gấp nghìn lần hơn vua Lê Ngọa Triều.

Trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim đã viết: “Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt Trụ ngày xưa. Cựu tướng Trần Độ, người Cộng sản lão thành tận tụy phục vụ đảng gần 60 năm, sau cùng đã phản tỉnh và trước khi qua đời, ông đã viết trong Nhật ký Rồng rắn đại ý rằng cái chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, nó tàn bạo hơn cả chế độ của Tần Thủy Hoàng và dã man của chủ nghĩa phát xít Hitler. Nhưng ai đã xây dựng cái chế độ xã hội chủ nghĩa dã man tàn bạo đó, chính là Hồ Chí Minh chứ còn ai khác.Cho nên lời phê bình của Cựu tướng Trần Độ chủ ý nói rằng Hồ Chí Minh là kẻ tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng và dã man hơn Hitler! Nói tóm lại, trong lịch sử Việt Nam, trong thời gian dài 1.000 năm từ 1005 đến 1945, độc ác và sát hại dân chỉ có HAI: Vua Lê Long Đĩnh và Chủ tịch Hồ Chí Minh!

Triều vua Lê Long Đĩnh chỉ có 4 năm ngắn ngủi, còn Chế độ Hồ Chí Minh kéo dài cho đến bao giờ? Thật khốn khổ thay cho Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam!

Chúng ta đã đi qua một chặng dài 1.000 năm đẹp của lịch sử trước khi đến cảnh Ngục tù do Hồ Chí Minh xây dựng để tìm gặp nhà sư Tuệ Minh bất hạnh bị giam cầm và tra tấn ở đấy cho đến chết! Nhà sư là nhân vật xuất hiện ở chương chót trong tác phẩm Địa ngục sình lầy của tác giả Trần Nhu. Tác giả cũng là một người tù bất hạnh, bạn đồng tù với nhà sư Tuệ Minh. Sau đây là đôi dòng về tác giả Trần Nhu, trích trang bìa sau quyển Địa ngục sình lầy:

TRẦN NHU sinh năm 1938 tại Tiên Lãng, Hải Phòng, Bắc Việt Nam. Trước 1958 đi học và sáng tác Văn học. Năm 1958 bị tù vì vượt biên qua Lào quốc và sáng tác Văn học. Ra tù năm 1960. Bị bắt lại năm 1961 vì tranh đấu cho nhân quyền. Ra tù 1978. Vượt biên cuối 1981. Định cư tại Hoa Kỳ 1982.

Như thế đó, phải vượt thoát khỏi đất Việt và đến tuổi ngũ tuần, Trần Nhu mới được Nữ thần Tự do trao cây viết lại để anh hoàn thành tác phẩm Địa ngục sình lầy. Quyển sách được xuất bản năm 1990 lúc tác giả 52 tuổi!

Trong Lời nói đầu, ta đọc được tâm tình thật cảm động của tác giả:

Tôi viết để làm dịu đi những gay gắt, cam go ác liệt, để làm nhẹ vơi đi niềm ô nhục, làm yên ổn lương tri bị hành hạ của hàng triệu con người. Tôi viết để gột rửa trong đáy mắt những bà mẹ dòng lệ xót. Tôi viết cho hàng triệu nạn nhân đã chết, tôi viết cho những người còn sống nhưng không được quyền ăn nói, tôi viết cho quê hương đã bị vắt kiệt, tôi viết về quê hương đang bị đè nặng bởi những cái bóng vĩ đại, những cái bóng đã xô đẩy cả Dân tộc tôi xuống vực thẳm, đã đổ bóng tối lên cả một vùng trời.

Thật đẹp vô cùng, sứ mạng của cây viết Trần Nhu! Như đã trình bày ở trên, Vũ Thư Hiên cũng giống như Trần Nhu, hai người cùng một cảnh ngộ, một số phận hẩm hiu như nhau trong “Thiên đường mù. Vũ Thư Hiên cũng phải đào thoát khỏi Việt Nam, sống lưu vong ở Pháp, không bị công an bịt miệng, mới hoàn thành xong Đại hồi ký Đêm giữa ban ngàyđể làm món quà trân quý trao tặng cho thế hệ tương lai.

Xin trở lại chuyện người tù là nhà sư Tuệ Minh. Một buổi chiều cuối hạ năm 1965, khi Trần Nhu chuyển từ trại Xuân Giang đến trại Hoàng Xu Phì ở đông bắc tỉnh Hà Giang, thì đã gặp sư Tuệ Minh bị giam ở đấy không biết từ năm nào. Trại Hoàng Xu Phì thật xứng đáng là Ngục tù mẫu mực của Chế độ Hồ Chí Minh. Ở Cổng Hậu sát bìa rừng có Nhà Xác, địa điểm được chọn lựa quá khéo rất thuận lợi cho việc kéo xác tù đi chôn. Nhà Xác lại đối diện với Nhà Giáo Dục, lại một thiết kế rất khôn ngoan. Trong Nhà Giáo Dục bày ngổn ngang những dụng cụ tra tấn như kìm búa, dùi sắt, dùi tre, mũ gò bằng tôn sắt, loại tôn dày, vài cuộn dây rừng, v.v… Về mùa nóng cũng như mùa lạnh, nhà này có một lò than luôn luôn cháy đỏ, dùng để nung dùi và mũ sắt. Mũ này người tù ở trại gọi là “mũ cụ”. Mũ gõ bằng loại tôn sắt giống như chiếc mũ cối của bộ đội, mũ được nung đỏ, rồi trói tù lại chụp lên đầu, làm cho người tù kêu rú, rống lên. Theo tiếng rú khiếp đảm của những người tù xấu số, lũ chuột rừng kéo vào hàng đàn chạy lăng xăng qua lại giữa Nhà Giáo Dục và Nhà Xác chờ được thưởng thức bữa tiệc thịt người do Quản giáo Việt cộng thết đãi!

Trong văn phong của Trần Nhu, nhân dáng hình hài của sư Tuệ Minh còn sót lại sau những năm dài trong ngục tù của chế độ Hồ Chí Minh như sau:

…Chợt tôi thấy một cảnh vệ và hai tù nhân trong ban Trật tự của trại, nhưng họ ở bên hình sự, lôi kéo xền xệt trên mặt đất, một người gầy nhom, bẩn thỉu, tanh hôi vào cửa buồng và giao cho Buồng trưởng. Người tù bò bốn chân, quần để tuột xuống hẳn ống cẳng chân, làm cả khoảng bụng, đít phơi trần truồng. Manh áo nhuộm máu đã khô, che không kín lưng, phía dưới để hở rõ bộ xương sườn xám đét, khô đầu trơ sọ tráng loét xuống tận cổ, hai tai bị cắt cụt, đôi mắt trũng sâu như lỗ đáo, dòi bọ bò lêu nghêu khắp thân thể. Tự nhiên một cảm giác ớn lạnh luồn vào cơ thể chạy suốt chân. Tôi nhìn người tù, không còn ra hình dáng con người nữa, nó méo mó biến dạng một cách khủng khiếp.

Nhưng thật lạ! Ở nhà sư Tuệ Minh, thân thì “những vết rạch ngang dọc trên đầu, trên mặt, cổ và bộ ngực. Tai không còn nghe rõ, miệng không còn đọc kinh niệm Phật, thân thể không còn nguyên vẹn như xưa, lột hết cả áo tu hành, con người trần trụi.”Ở nhà sư Tuệ Minh, ở bộ xương còn biết cử động ấy, dường như có một dấu hiệu lạ, toát ra một phong độ kiên hùng, vững chắc. Trần Nhu thuật tiếp rằng sư Tuệ Minh bình tĩnh tưởng như không có chuyện đau đớn thể xác, không rên xiết, hoàn toàn không. Rồi những ngày sống kế tiếp, Sư lẳng lặng ngồi tư thế tụng niệm của đức Phật, vẫn không một tiếng rên xiết, tuyệt nhiên không.Trần Nhu hỏi một lão tù già về sư Tuệ Minh, qua giọng thều thào như nghẹt ở cuống họng, lão kể lể từng câu, ngừng năm, mười phút, rồi thuật tiếp, chuyện kể luôn đứt đoạn, câu nghe được cũng rất khó hiểu: “Sư khừ khừ… bị a… khừ khừ… a… kỷ luật a… vì a… khừ khừ… nghỉ ngày a… Phật đản a… Rồi a… Ban Giám thị a… khừ khừ a… cắt tai… khừ khừ… gọt đầu a… khừ khừ… sư… khừ khừ… bằng mảnh chai a… khừ khừ… dùi nung đỏ a… khừ khừ… sư… a… sư!

Nhà sư Tuệ Minh chết trong trại giam Hoàng Xu Phì. Mãi sau này, Trần Nhu mới biết rõ pháp danh ngài là Tuệ Minh, quê Thiện Hóa, thuộc xứ Thanh. Ngài xuất gia đầu Phật lúc tuổi mười lăm, với sư cụ Thích Thiện Hòa tại chùa Thiên Phúc bên dòng sông Đáy tỉnh Sơn Tây, nơi mà ngày xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đắc đạo. Nhắc lại lúc Cách mạng Mùa thu 1945, sư Tuệ Minh có mặt trong đoàn Đại biểu tỉnh Sơn Tây, đến Hà Nội ngày 2-9-1945 để tham dự buổi mừng Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Ngài tham gia phong trào Phật tử Yêu nước theo truyền thống của tiền nhân, theo Tự tình Dân tộc.

Rồi nhà sư Tuệ Minh bị kết tội “lừa dối nhân dân, tuyên truyền phản cách mạng” và bị bắt giam ở trại Hoàng Xu Phì cho đến chết. Rất cần nhắc lại lúc Cách mạng Mùa thu 1945, sư Tuệ Minh tháp tùng Phái đoàn Yêu nước tỉnh Sơn Tây đến Hà Nội trong Ngày Lễ mừng Độc lập 2-9-1945 để nghe Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Vườn Hoa Ba Đình. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, không còn thời “Đêm giữa ban ngày” nữa, Dân tộc đã rất “rạch ròi trong những khái niệm”(chữ của Vũ Thư Hiên), Dân tộc biết rất rõ rằng “ngoài miệng Hồ Chí Minh Cha già Dân tộc” thì tuyên bố những ngôn từ đẹp đẽ như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, bình đẳng về quyền lợi v.v… như những công dân các nước Anh, Pháp, Mỹ được hưởng. Nhưng khốn khổ cho Dân tộc, “trong tâm địa Hồ Chí Minh Quốc tế ủy Kominternchik” thì toàn là những vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc, cải cách ruộng đất, đấu tranh giai cấp sắt máu… Chính Hồ Chí Minh mới là kẻ lừa dối Nhân dân, tuyên truyền phản cách mạng, chứ không phải nhà sư Tuệ Minh.

Cùng phát biểu y như trên, tác giả Trần Nhu, người tù nhân 20 năm của Việt Cộng, viết trong đoạn kết luận cho quyển Địa Ngục Sình Lầy của ông với lời văn như sau:

Ngày ấy, sư Tuệ Minh mang ý niệm tôn kính cụ Hồ như những bậc vĩ nhân yêu mến loài người. Khi cụ nói:
- Mọi người đều được dựng lên “bình đẳng” trong đó có quyền sống, quyền được hưởng tự do, quyền tín ngưỡng, và dĩ nhiên không thiếu sót một thứ quyền nào cả.
Với lời lẽ trịnh trọng như một Washington, cụ hỏi:
- Tôi nói đồng bào nghe rõ không?
Tất cả xúc động, đồng thanh:
- Thưa cụ, rõ!
Nhưng lời hứa… Đó chỉ là lời hứa! Còn phải có thời gian… Rồi thời gian trôi đi. Mười năm sau. Đốt kinh, phá chùa, bắt tăng ni… cũng vẫn bộ mặt ấy! Vẫn ông cụ ấy! Vẫn thằng chọ chọe ấy! Bá ngọ, thằng cuội xứ Nghệ!”

Đó là nguyên văn Trần Nhu viết để kết luận cho quyển Địa ngục sình lầy. Sách được viết xong ngày 8-7-1988 và tác giả tự xuất bản năm 1990. Bây giờ, người viết cũng xin mượn đoạn văn trên của tác giả Trần Nhu để kết luận cho chương “Hồ Chí Minh, Con vẹt của Stalin” này.

Người viết chỉ xin thêm: “Miệng lưỡi Hồ Chí Minh Cha già Dân tộc” thì thật HOÀN TOÀN TRÁI NGƯỢC với “Tâm địa Hồ Chí Minh Quốc tế Uỷ Kominternchik, Con vẹt của Stalin”!

Nếu Stalin phá hoại cuộc Cách mạng Tháng Mười của Liên Xô, thì Hồ Chí Minh, Con vẹt của Stalin, đã làm hư cuộc Cách mạng Mùa thu 1945 của Dân tộc. Chính vì vậy mà sinh ra Đại họa Hồ Chí Minh, cơn Quốc nạn của Dân tộc Việt Nam!

Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Ngày Quốc hận 30-4-2008
Nhóm Tâm Việt Sydney   

Kính mời xem tiếp tập 3

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17

@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Trúc Lâm Yên Tử Trên Mạng Xã Hội:

facebook

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site