lịch sử việt nam

Trang Chính

Bản Tin: (Blogs; Anh Ba Sàm; Cầu Nhật-Tân; Chu-Mộng-Long; Cu Làng Cát; Dân Làm Báo; Dân Oan Bùi-Hằng; Diễn-Đàn Công-Nhân; Diễn-Đàn Công-Nhân;Giang-Nam Lãng-Tử; Huỳnh-Ngọc-Chênh; Lê-Hiền-Đức; Lê-Nguyên-Hồng; Lê-Quốc-Quân; Mai-Xuân-Dũng; Người Buôn Gió; Phạm-Hoàng-Tùng;Phạm-Viết-Đào;Quê Choa VN)

Biển Cả Và Con Người:

Bưu-Hoa Việt-Nam:

Chết Bởi Trung Cộng:

Địa-Linh Nhân-Kiệt Của Việt-Nam:

Điện-Toán - Tin-Học:

Ebooks Hồi-Ký - Bút-Ký:

Hịch Tướng Sĩ:

Hình-Ảnh Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa

History Of Viet Nam

Hoàng-Sa Trường-Sa Là Của Việt- Nam:

Hồ-Sơ Chủ-Quyền Quốc-Gia Việt- Nam 

Hội Sử-Học Việt-Nam

Vietnam Human Rights - Human Rights Activist

Lá Thư Úc-Châu

Lịch-Sử Việt-Nam Cận-Đại:  

Lịch-Sử Việt-Nam Ngàn Xưa:

Ngàn Năm Thăng Long (1010 - 2010)

Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa

Nguyên-Tử Của Việt-Nam Và Quốc- Tế

Người Dân Khiếu-Kiện:

Phụ-Nữ, Gia-Đình, Và Cuộc Sống:

Quốc-Tế:

Sitemap:

Tiền-Tệ Việt-Nam:

Tin Nhắn, Tìm Thân-Nhân Mất-Tích, Mộ Tìm Thân-Nhân:

Tin-Tức Thời-Sự Việt-Nam:

Thư-Tín:

Tòa Án Hình Sự Quốc Tế Về Việt-Nam và Trung Quốc:

Tư-Tưởng Phật-Giáo:

Tưởng-Niệm 50 Năm 1963-2013:

Ủng Hộ Trúc-Lâm Yên-Tử - Donate:

Văn-Hóa Tộc Việt:

Weblinks:

 

 

Cây có cội, nước có nguồn. Toàn dân Việt-Nam ngàn đời ghi nhớ ân đức Quốc Tổ Hùng Vương

Quân Sử Việt Nam Cộng Hòa Qua Hình Ảnh 

Thư-Viện Bồ Đề Online_Thư Viện Hoa Sen

nơi hội tụ của những tâm hồn trăn-trở về nhân-sinh quan và vũ-trụ quan

đồng thời xiển-dương Chánh Tín_bài trừ Mê-Tín Dị Đoan 

SNOUL, TƯỞNG RẰNG ĐÃ XONG… (Kb. NguySaigon)

quan su viet nam, quân đoàn III quân khu III

Posted on November 11, 2014 by Lê Thy

Giới thiệu của BVCV:

Trước khi phổ biến bài SNOUL, TƯỞNG RẰNG ĐÃ XONG… , Ngụy Saigon gửi cho Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi đọc trước để xin ý kiến. Và dưới đây là điện thư trả lời của Tướng Khôi viết ngày 7-11-2014

Em HAN quí mến, 

Anh đọc bài viết của em mà lòng xúc động thấy em bỏ công sức ra bênh vực anh không mệt mõi. Nhắc lại trận SNOUL, anh nhớ như in từng chi tiết một như mới xay ra hôm qua.

Tôn Thất HOÀNG đã mất hơn một năm nay ở Vỉginia, Trương Hồng CẨM chết ở SNOUL trước mắt anh. Các anh là trung uý, thiếu uý đã từng lặn lội với anh trên rừng núi PLEIKU, KOMTUM hay QUẢNG TRỊ, KHE SANH, LAO BẢO mà anh xem như ruột thịt. Giải cứu ở SNOUL đối với anh là nhiệm vụ tối thượng của Quân Đội mà còn là mệnh lệnh của trái tim nữa.

Anh biết em quí trọng thương anh bênh vực anh. Cám ơn em lắm. Nếu không có em lên tiếng, chắc anh sẽ không trả lời, anh nghĩ người có trí người ta sẽ hiểu. Anh xét thấy bài viết của em quá rõ ràng và đầy đủ chỉ có một điểm cần sửa là Đại tá, Tham Mưu Trưởng QĐIII lúc đó là Đại tá Tuân chứ không phải Đại tá Ngô Văn Minh.

Có tin vui là Quốc Hội của TB Virginia ra Nghị Quyết Số 455 lấy ngày 30/4 kể từ năm 2013 cho đến các năm kế tiếp là ngày VNCH ở TB Virginia. Trong Nghị Quyết này có nêu đích danh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh/VNCH là đơn vị chiến đấu biểu tượng của sự dũng cảm và mưu lược của QLVNCH.

Đến ngày 10 tháng 2/2014, anh được Senator Richard Black của Quốc Hội TB Virginia mời đến Richmond để được ông vinh danh trước Thượng Viện TB Virginia. Senator Richard Black nguyên là Đại tá TQLC Mỹ đã từng chiến đấu và bị thương trận ở VN.

Theo đây anh chuyển cho em 3 tài liệu (1) trong đó có bức thư đề ngày 30 Nov. 2013 của Đại tá Black gởi cho anh. Ông nói lên sự ngưỡng mộ đối với anh. Ông phân tích trận đánh ĐỨC HUỆ, khen ngợi và muốn anh công khai phổ biến. Đây là một vinh dự lớn chẳng những cho Binh Chủng Thiết Giáp Binh mà còn cho toàn thể QLVNCH mình. Nếu có thể được, em dựa vào các sự kiện và các tài liệu này, viết một bài loan tin đặc biệt nàỵ

Một lần nữa anh cám ơn em và thân ái chúc em và quí quyến luôn được bình an hạnh phúc.

Trần Quang Khôi

(1) Đính kèm:

1- Tiểu sử của Chuẩn Tướng TRẦN QUANG KHÔI do Nghị Sĩ Richard H. Black giới thiệu trước Thượng Viện của Tiểu bang Virginia ngày 10 tháng 2, 2014 (nguyên bản tiếng Anh)
2- Thư giữa Nghị Sĩ Richard H. Black và Tướng Khôi (nguyên bản tiếng Anh)

quân sử việt nam, chiến xa m 41, snoul campuchea 1970-1971

Cuộc rút quân tại Snoul đã hơn 43 năm , nhưng vẫn còn dư âm trong lòng mỗi người lính chiến đã tham dự còn sống đến bây giờ . Người đau đớn nhất có lẽ là Thiếu Tá Trần Văn Thưởng , Tiểu Đoàn Trưởng TD 1/8, SD 5BB .

Đau đớn vì Thiếu Tá Thưởng đã không hiểu tại sao Trung Tướng Nguyễn Văn Minh , Tư Lệnh QDIII&QKIII, đã cho án binh bất động trong tháng 5/1971 và ra lệnh cho Chiến Đoàn 8 rút quân đơn độc không có đơn vị cản hậu , không có đơn vị tiếp trợ Trong khi đó nỗ lực chính của Quân Đoàn đang ở Chup và Kompong Cham . Tại thời điểm đó, có hai Chiến đoàn của SD18BB và SD25BB đang ở phía Nam của Chiến đoàn 8. Thiếu Tá Thưởng đã viết thư để hỏi Trung Tướng Minh: tại sao cho CD8BB rút quân đơn độc? Nhưng Trung Tướng Minh đã giữ im lặng, thật trái với thái độ sốt sắng khi cung cấp những tài liệu về trận An Lộc cho Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh viết nên cuốn chiến sử “Chiến Thắng An Lộc 1972″.

Điều tệ hại là tất cả mọi trách nhiệm và tội lỗi trút lên đầu của Tướng Nguyễn Văn Hiếu , Tư lệnh SD5BB , Đại Tá Bùi Trạch Dzần, Chiến Đoàn Trưởng CD8BB và thậm chí Đại Tá Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và LLXKQDIII , người đã có công mở đường , bảo vệ cho Chiến Đoàn 8 rút lui an toàn về nước .

Vào thời điểm đó, Ngụy tui vẫn còn ngồi tại giảng đường Đại Học Khoa Học Saigon. Dù không có dính dáng gì đến trận chiến đó, nhưng Ngụy tui rất bất bình . Bất bình vì bao nhiêu người đã bỏ sức lực tài lực để Trung Tá Ánh thực hiện quyển chiến sử ” Chiến Thắng An Lộc 1972″ . Thay vì viết lại trận chiến một cách trung thực , Ban Biên tập gồm có Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh ,Chủ Biên. Đại úy Lê Hoàng Ân , Tổng Biên Tập, cùng với Chuấn Tướng Mạch Văn Trường cố vấn. Đã viết hết sức sai lạc về cuộc rút quân tại Snoul đổ hết tội lỗi lên Đại Tá Trần Quang Khôi và để chạy tội cho Trung Tướng Minh.

Vì bất bình nên Ngụy tui đã phỏng vấn Tướng Trần Quang Khôi, và tham khảo những bài viết về trận Snoul, điển hình là bài viết của người trong cuộc , Thiếu Tá Thưởng , TD trưởng TD1/8 để viết nên bài viết ” Snoul: Trận Chiến Hào Hùng của LD3K/LLXKQDIII” nhằm trả lại sự thật cho lịch sử . Ngụy tui đã gửi bài viết nầy cho Trung Tá Ánh và chờ đợi ý kiến, hoặc bài phản biện của Trung Tá Ánh . Trung Tá Ánh đã giữ im lặng giống như Trung Tướng Minh đã giữ im lặng không trả lời Thiếu Tá Thưởng về những câu hỏi liên quan đến cuộc rút quân tại Snoul .

Khi viết bài đó, Ngụy tui chưa từng gặp mặt Tướng Trần Quang Khôi, cuộc phỏng vấn được thực hiện bằng email và qua điện thoại . Mãi đến năm 2009 trong kỳ Đại hội TGB tại Nam Cali, Ngụy tui mới đến trình diện Tướng Khôi . Binh chủng Thiết Giáp chúng tôi đã có mặt khắp các chiến trường thuộc 4 Quân Khu . Hợp đồng chiến đấu cùng tất cả các binh chủng, thậm chí cả Nhân Dân Tự Vệ cũng đã từng tùng thiết cho chúng tôi . Nhưng khi các binh chủng bạn viết lại những trận đánh năm xưa, hình ảnh và hoạt động Thiết Giáp Binh rất mờ nhạt, thậm chí còn bị bôi nhọ như trong cuộc rút quân tại Snoul và trận đánh tại Khánh Dương . Tại Snoul Trung Tá Ánh cho cả Lữ Đoàn 3 KB và LLXKQDIII đi trốn trong 2 ngày và trong trận Khánh Dương , tác giả Đại úy ND Võ Trung Tín đã cho 4 M113 lạnh cẳng tự ý bỏ tuyến thép tử thủ nên bị ND bắn cháy bằng kỷ luật thép của binh chủng ND . Ngụy tui đã viết bài “Khánh Dương Trận Chiến Ngậm Ngùi” để phân tích để phản bác những điều láo lếu, bịa đặt nhằm bôi nhọ binh chủng TG chúng tôi . Và Ngụy tui cũng đã gửi bài viết cho Đại úy ND Võ Trung Tín đọc và chờ ý kiến. Đại úy Võ Trung Tín cũng giữ im lặng, vẫn đăng bài viết đó trong quyển sách ” 25 Năm Chiến Sự Nhảy Dù” mặc dù trước đó người trong cuộc là Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu Đoàn Trưởng TD5ND, đã viết bài “Trận Chiến Đèo M’ Rang” ( Tiếng Việt đèo Khánh Dương) với sự thật rõ như ánh mặt trời là Trung tá Bùi Quyền đã điều động Chi đoàn 3/19 Thiết Giáp làm lực lượng cản hậu cho 4 Đại Đội thuộc TD 5 ND rút lui và đã bị VC phục kích bắn cháy 4 xe M113 . TD5ND nhận lệnh từ LDND rút quân . Không có tuyết thép tuyến sắt gì cả .

Trung Tá Ánh và Đại úy Tín là những tay súng thiếu lương thiện . Đã đánh mất tín niệm Danh Dự trong ba tín niệm Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm . Đại úy Tín viết láo như thế , đâu có làm tăng thêm uy tín cho Binh chủng ND đã từng được mệnh danh là Thiên Thần Mũ Đỏ, trái lại là đằng khác . Trung Tá Ánh viết láo lếu cho LĐ3KB đi trốn 2 ngày, sau khi nhận lệnh đi tiếp cứu Chiến Đoàn 8, chỉ để bênh vực cho thầy là Trung Tướng Minh đã mắc nhiều sai lầm khi điều binh khiển tướng trong phạm vi trách nhiệm QĐIII .

quân sử việt nam, tướng đỗ cao trí, tướng trần quan gkhôi, nguyễn văn thiệu, snoul campuchea 1970-1971

Ngụy tui đã phỏng vấn Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi , Tư lệnh LLXKQDIII và LD3KB cũng như đã phân tích những bào chữa rất vụng về của Trung tá Ánh , một đệ tử ruột của Trung Tướng Minh , người đã quyên tiền để thực hiện quyển sách “Chiến thắng An Lộc 1972″ . Ngụy tui đã gửi ngay bài viết “Snoul: Trận Chiến Hào Hùng của LD3K/LLXKQDIII” đến hai người là Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh và Đại úy Nguyễn Hoàng Ân . Cả hai đã giữ im lặng không có phản bác phản biện gì hết .

Coi như xong . Một trận đánh đã đi vào dĩ vảng sau khi đã có hai phe lên tiếng . Sự nhận định thuộc về độc giả . Thế nhưng mới đây lang thang trên Net, được đọc một bài viết “Hệ Lụy cuộc lui binh từ Snoul (1971)” tác giả Nguyễn Ngọc Tùng . Một tên tuổi rất xa lạ . Tìm hiểu thì Nguyễn Ngọc Tùng là sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Nguyễn Văn Minh . Cấp bậc có lẽ là Đại úy hoặc Thiếu Tá, chắc cũng xuất thân từ TVBQGDL. Thêm một đệ tử ruột của Trung Tướng Minh, lên tiếng chỉ trích Đại Tá Trần Quang Khôi trong nhiệm vụ giải cứu Chiến đoàn 8, đang bị bao vây tại thị trấn Snoul . Ngụy tui không coi thường những sĩ quan tùy viên. Nhưng công việc đó không thích hợp với Ngụy tui, Ngụy tui đã từng được một ông Tướng hỏi có muốn làm tùy viên cho Tướng không thì Ngụy tui trả lời ngay “No, thank you”. Bởi vì hằng ngày, Ngụy tui thấy Đại úy tùy viên rất bận rộn đủ thứ chuyện, từ tào lao thiên đế đến chuyện trong nhà ngoài ngỏ, những chuyện mà Ngụy tui thấy không thể hoàn thành được . Trước giờ ít khi thấy sĩ quan tùy viên Tướng viết bài tranh luận hay phản biện phản bác. Bởi vì tính chất công việc của một sĩ quan tùy viên là NHẬN LỆNH và THI HÀNH. Họ viết, để kể về công việc của họ , một người là Đại úy Phạm Bá Hoa tùy viên cho Tướng Trần Thiện Khiêm và người thứ hai là Đại úy Đặng Kim Thu, xuất thân Võ Bị Đà Lạt , tùy viên cho Tướng Cao Văn Viên … nhưng lần đầu tiên có một ông sĩ quan tùy viên Nguyễn Ngọc Tùng viết bài phản biện để chỉ trích Tướng Khôi hầu bênh vực cho thầy là Trung Tướng Minh .

Mới dạo đầu, ông sĩ quan tùy viên Nguyễn Ngọc Tùng sợ bàng dân không biết, không hiểu sự vụ lệnh (SVL) hay công tác lệnh là gì , ông ta bèn dài dòng văn tự giải nghĩa rằng thì là trình diện sau ngày ghi trong SVL là tù chứ không giởn chơi được . Từ việc trễ hẹn cá nhân ông sĩ quan tùy viên lan man qua đến đơn vị và lớn tiếng dọa rằng đơn vị mà trễ hẹn là đơn vị trưởng ốm đòn với ban an ninh . Nghe dọa Ngụy tui cũng sợ, thiệt may mà trong suốt cuộc đời quân ngũ chưa bao giờ Ngụy tui trễ phép, trễ hẹn. Đúng, ông sĩ quan tùy viên phán rất đúng . Nhưng có những vụ trễ phép trễ hẹn mà chẳng có phạt tù phạt củ gì cả . Mậu Thân 1968 bao nhiêu quân nhân trễ phép mà có bị gì đâu. Tức là cũng có chuyện ngoại lệ .

Ông sĩ quan tùy viên nầy rất thích dạy đời . Ông làm tùy viên cho Tướng rất là không đúng khả năng mà nếu ông làm thầy đời thì chắc đúng chỉ số . Ông lại giảng dạy, giảng nghĩa chữ chiến đoàn rồi còn chua thêm tiếng Mẽo nữa . Bài viết của ông sĩ quan tùy viên nầy thể hiện đúng tư cách và việc làm hằng ngày của ông ta . Tức là lu bu từ việc đem giấy “kiss me” cho xếp, khi Tướng tắm buổi sáng, dĩ nhiên Tướng mà tắm, sĩ quan tùy viên phải bị ướt, cho nên phải tự lau mình, xong là phải cà phê cà pháo , hủ tiếu hay phở hay cháo lòng hay cháo đậu xanh, rồi đôi giày có bóng chưa . Xong xuôi phải lo quần áo, lon lá, nón nải, áo giáp cho Tướng. Rồi phải chạy qua Tướng bà coi thức dậy chưa, rồi một loạt công việc giống như cho Tướng ông. Làm việc cho Tướng bà chắc chắn phải cực hơn Tướng ông là cái chắc . Cho nên bài viết lu bu chi tiết tùm lum tùm la, chả biết đâu mà rờ . Ráng lắm Ngụy tui mới biết được là để giải vây, giải độc, để bào chửa cho Tướng Minh, ông sĩ quan tùy viên không cho LLXKQDIII và LD3KB đi trốn như Trung Tá Ánh đã vẽ vời, bị Ngụy tui lật mặt dốt và láo làm mất mặt SQVBDL. Ông sĩ quan tùy viên lần nầy cẩn thận hơn, sau khi đọc thật kỷ bài Ngụy tui viết , cân nhắc đủ thứ bèn cho Đại Tá Khôi và LLXKQĐIII /LD3KB trình diện trễ vì hội chứng “NGỦ QUA ĐÊM”

Theo như lời Tướng Khôi trả lời trong cuộc phỏng vấn thì ngày 29 tháng 5 LD3KB/LLXKQDIII đang ở Suong phía Nam Dambe tức là bên phần đất Miên . Được lệnh về Thiện Ngôn, một cứ điểm tiếp liệu, để tiếp tế xăng nhớt xong CHỜ LỆNH QDIII . Tới bộ Tư lệnh tiền phương QDIII tại Tây Ninh gặp Đại Tá Ngô Văn Minh, Tham mưu trưởng Quân Đoàn nhận lệnh . Tại đây, Đại Tá Khôi được Đại Tá Ngô Văn Minh cho biết lệnh của Trung Tướng Minh tăng phái LLXKQDIII cho SD5BB . Ngủ qua đêm Thiện Ngôn . Ngày 30 tháng 5 LLXKQDIII di chuyển đến Lai Khê để nhận lệnh Thiếu Tướng Hiếu , Tư lệnh SĐ5BB . Đến Lai Khê đã tối, Thiếu Tướng Hiếu cho bố trí qua đêm ở Lai Khê, sáng ngày 31 thánh 5 đến Lộc Ninh trình diện và nhận lệnh Thiếu Tướng Hiếu đi tiếp cứu ngay Chiến đoàn 8 đang rút quân về VN .

Đầu đuôi câu chuyện là như thế . Ông sĩ quan tùy viên đưa vô kính hiển vi, rà lên rà xuống bèn “phát hiện hội chứng ngủ qua đêm ” mừng như bắt được thằng VC đang tấn công vô dinh Tướng bà . Phen nầy ắt hẵn lập chiến công to . Mừng chứ . Bắt được vàng chưa chắc vui bằng. Ông sĩ quan nhắc “Sự vụ lệnh” rồi “Công tác lệnh” . Ông cũng cẩn thận giải nghĩa rõ ràng cho bàng dân thiên hạ hiểu sự vụ lệnh là gì, trễ hẹn là bị an ninh hỏi thăm sức khỏe . Vậy mà chả có gì xảy ra cho Đại Tá Khôi và LLXKQDIII/LD3KB cả ,. Đã ngủ qua đêm ở Thiện Ngôn rồi ngủ qua đêm nữa ở Lai Khê trước khi đến Lộc Ninh mà chả bị kỷ luật gì cả mà còn được thưởng cái Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu . Đại Tá Khôi không bị lột lon giáng cấp hay mất chức tư lệnh dù ngủ qua 2 đêm LLXKQDIII /LD3KB vẫn là đơn vị đi tiếp trợ cho Chiến đoàn 8/ SD5BB đang tuyệt vọng rút quân về VN . Có nghĩa là “mặt trận miền Tây vẫn yên tỉnh “

quân sử việt nam, snoul campuchea 1970-1971

Để Ngụy tui luận chỗ nầy cho sĩ quan tùy viên được rõ, sĩ quan tùy viên với “phông sông” là tà lọt thành thạo chuyện phục dịch hơn là hiểu biết chuyện chiến trường . Chả có sự vụ lệnh gì sất cả . Tại sao ? Để gửi cái sự vụ lệnh gì đó như ông sĩ quan tùy viên tà lọt tưởng tượng, có hai cách để gửi : một là dùng trực thăng chuyển đến Đại Tá Khôi đang ở bên Miên hay là đánh công điện . Cách nào cũng dở . Tại sao ? Yếu tố và tính cách BẢO MẬT phải được đưa lên hàng đầu . Chuyển theo công điện VC có thể bắt được . Chuyển theo trực thăng và công điện thì phòng ba của bộ Tư lệnh LLXKQDIII/LD3KB phải biết thời điểm và hành trình cuộc di chuyển . Yếu tố BẢO MẬT sẽ không được giữ kín vì chắc gì những chiến sĩ làm việc trong phòng 3 LD3KB giữ được bí mật cho nên chỉ cho biết từng chặng đường di chuyển . Chính Đại Tá Khôi cũng không biết sẽ đi đâu . Từ Suong bên Miên về Thiện Ngôn tiếp tế xăng dầu . Đại Tá Khôi đến trình diện Quân Đoàn thì được Đại Tá Tuân, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III, cho biết, lệnh của Trung Tướng Minh là LD3KB/LLXKQDIII tăng phái cho Sư Đoàn 5 BB . Tới đây cũng chưa biết nhiệm vụ là gì . Phải đến khi gặp Thiếu Tướng Hiếu tại BTL Tiền phương SD5BB , Lộc Ninh sau khi đã thuyết trình cho Tướng Hiếu về thành phần quân số đạn dược tham chiến của LLXKQDIII/LD3KB, Tướng Hiếu mới cho biết nhiệm vụ của Đại Tá Khôi và LLXKQDIII/LD3KB đi Snoul tiếp trợ cho Chiến đoàn 8 /SD5BB. Không trách ông sĩ quan tùy viên vì kiến thức , sự hiểu biết về tham mưu, về chiến trường của ông quá yếu mà không chịu nghiên cứu tìm hiểu học hỏi, lại quen với ông Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh người tự xưng là phụ tá HQ QDIII . Cả ông Nguyễn Ngọc Ánh cũng là một sĩ quan thiếu kiến thức . Ông tự xưng là SQ phụ tá HQ QDIII là biết ngay ông thuộc loại SQ nổ . Sĩ quan phụ tá HQ SD5BB là Đại Tá Đổ Đức Điềm . Trong khi SQ phụ tá HQ Quân Đoàn chỉ cấp Trung Tá . Chức vụ Trung Tá trên cơ Đại tá . Chuyện không thể xảy ra trong bất cứ quân đội nào trên thế giới . Không lẽ Trung Tướng Minh để cho Trung Tá ra lệnh cho Đại Tá . Hoặc để cho một Trung Tá chỉ có 9 năm thâm niên quân vụ giữ trách vụ của một Tướng Lãnh . Đại Tá Khôi khi nhận lệnh trình diện Quân Đoàn III, đâu đã biết nhiệm vụ đi đâu và làm gì, tại sao phải tắt máy truyền tin đi trốn 2 ngày. Rõ là nhảm nhí . Ông sĩ quan tà lọt Nguyễn Ngọc Hùng cứ mở mồm mở miệng là công điện, là sự vụ lệnh . Ông ta còn nhấn mạnh chính Tướng Khôi nói là nhận công điện ngày 29 tháng 5 tăng phái cho SD5BB . Chỉ có mỗi công điện mà Tướng Khôi nhận từ QDIII là lúc qua đêm tại Lai Khê vì Trung Tướng Minh sợ Đại Tá Khôi kéo quân về Sàigòn đảo chánh thì cuộc đời và ái tình sự nghiệp của Tướng Minh sẽ tàn trong ngỏ hẹp . Cho nên Tướng Minh phải đánh công điện ngay, hỏi cho ra lẽ .

Ông sĩ quan tà lọt rất anh dũng và mạnh mẻ phê phán Đại Tá Khôi và LD3KB/LLXKQDIII, nằm chờ Địa Phương Quân mở đường rồi mới đi Lai Khê . Ông tà lọt nghĩ rằng với một lực lượng như thế phải chờ Điạ Phương Quân mở đường là một chuyện quá ư là phi lý . Bởi vì như đã nói là sĩ quan tà lọt thì biết gì về nguyên tắc. Địa phương quân phải chịu trách nhiệm mở đường, an ninh trục lộ tại địa phương mình. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch, đã xảy ra hằng ngày tại từng địa phương, từ lúc ĐPQ mới được thành lập cho đến ngày tan hàng . Đó là nhiệm vụ chính yếu của lực lượng Điạ Phương Quân và Nghĩa Quân bảo vệ và giữ an ninh cho địa phương của mình . Tên Địa Phương Quân đã nói lên rõ ràng tính chất và nhiệm vụ của ĐPQ . Cho nên Đại Tá Khôi muốn đi ngay không chờ Địa Phương Quân cũng không thể. Trong bài phỏng vấn, Đại Tá Khôi đã xác nhận rõ ràng khi Địa Phương Quân đã mở đường chính ông đã dùng xe Jeep để đến gặp Đại Tá Tuân tại Tây Ninh . Đại Tá Khôi đã đi và về bằng xe Jeep trên trục lộ đó. Nhưng khi điều động cả một đoàn quân gần 200 chiến xa và thiết xa thì khác, nếu VC cho nhiều toán trang bị B40, B41 SKZ 82 ly, nằm phục kích trên trục lộ đó thì LD3KB sẽ bị thiệt hại về chiến cụ vô cùng trầm trọng vì di chuyển tốc độ chậm phơi lưng cho các xạ thủ B40, B41 … VC tác xạ thì Đại Tá Khôi sẽ bị lột lon ra toà án Quân Sự Mặt Trận vì không áp dụng đúng nguyên tắc trong binh thư. Trong trận Lộc Ninh, mùa hè 1972, khi CD9BB bị tấn công , Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh SD5BB, ra lệnh cho Trung Tá Nguyễn Đức Dương , Thiết Đoàn Trưởng TD1KB, đem Thiết đoàn về cứu ứng từ Ngã Ba Bố Đức . Đoạn đường chỉ 10 cây số . Không có ĐPQ mở đường . Bị phục binh, Thiết đoàn 1 KB và TD 74 BDQBP tan hàng trong chớp mắt . Trung Tá Nguyễn Đức Dương bị bắt làm tù binh . Quý vị sĩ quan đệ tử Tướng Minh phải biết câu chuyện thương tâm nầy cả một Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh và TD74BĐQBP bị xóa sổ vì sự thiếu hiểu biết của Tướng Hưng khi điều động Thiết Giáp di chuyển trên Quốc Lộ 13 mà không có an ninh lộ trình .

Để Ngụy tui bàn về chuyện NGỦ QUA ĐÊM . Ông Sĩ quan tùy viên sai vặt của Tướng Minh không phải là sĩ quan Kỵ Binh, chưa từng được huấn luyện về chiến thuật tác chiến tấn công và phòng thủ của Thiết Giáp Binh, nên ông sĩ quan tùy viên không biết tại sao Thiết Giáp hay ngủ qua đêm . Trên lý thuyết và thực hành thiết giáp tuyệt đối không di chuyển và không đánh đêm. Thiết Giáp từ cấp Chi đoàn đã phải có một Đại Đội BB tùng thiết . Nhiệm vụ chính của Đại Đội BB tùng thiết là bảo vệ TG về đêm . Thiết Giáp không tự bảo vệ khi di chuyển hay qua đêm . Bộ binh đảm trách chuyện đó . Khi TG di chuyển phải có trinh sát cơ dẫn đường hoặc phải có BB mở đường, an ninh lộ trình . Ban đêm BB đặt tiền đồn chung quanh phía trước TG để báo động để chận đứng đặc công VC . Ngoài ra phải căng lưới chống B40, B41 phía trước đầu chiến xa . Phải gài mìn claymore và mìn chiếu sáng xa xa trước TG và phải đánh dấu những tiền đồn của Bộ Binh để khi bị tấn công ban đêm không bắn lầm hoặc cán lên quân bạn .

quân sử việt nam, thiết giáp binh việt nam, thiết vận xa m 113, binh chủng thiết giáp việt nam, snoul campuchea 1970-1971

Một kinh nghiệm chính bản thân Ngụy tui khi hành quân tại Chương Thiện . Phe ta gồm hai Tiểu Đoàn 1 và 2, Trung Đoàn 15, SD9BB và Chi Đoàn 3/2 Thiết Kỵ . Bảy giờ tối Chi Đoàn 3/2TK bố trí “ngủ qua đêm” cho Đại đội Trinh sát 15 tùng thiết làm tiền đồn . Đặt mìn claymore tự động và mìn chiếu sáng xong, bèn đến xe Chi Đoàn Trưởng uống vài ba chung rượu, Chi Đoàn Trưởng sẽ cho biết tình hình và nhiệm vụ ngày mai . Khoảng 9 giờ đêm VC tấn công vào vị trí đóng quân của BB . Lệnh Trung Đoàn trưởng cho Chi Đoàn 3/2 TK đi tiếp ứng . Chi Đoàn trưởng (CDT) từ chối vì đặc tính của TG không di chuyển và đánh đêm . Cả đám Chi đội trưởng lo lắng hỏi CDT liệu mình có đi không . CDT bảo rằng chắc chắn sẽ đi khi Tướng Tư Lệnh SD gọi cho xếp TG thì lon Tướng đè lon Tá và tụi mình sẽ phải đi .Đúng như thế chỉ cần 10 phút sau Thiết Đoàn Trưởng ra lệnh cho CD xuất phát . Não nề , chán nãn, lo sợ phải cho thu hồi mìn bẩy về, phải đếm lại coi có đủ số không . Gỡ thiếu thì tiêu tùng cả đám, nhất là ban đêm mà thu hồi mìn Claymore tự động là một thử thách cho các kỵ binh . Gỡ mìn xong thu hồi tiền đồn rồi ra đi . Đi âm thầm trong bóng tối, không mở đèn, đi bằng phương giác và đồng hồ miles . VC bắn B40, B41 vào hướng có tiếng động của thiết xa . Thụ động ngồi nhìn hỏa tiển bay đầy trời chỉ an ủi “Trời kêu ai nấy dạ” .

Đấy sĩ quan tà lọt không biết gì chiến trận, không biết gì tính chất đặc tính của từng binh chủng, diễu cợt cái gọi là “hội chứng ngủ qua đêm ” . Tướng Hiếu là một trong số Tướng Lãnh hiếm hoi biết điều động TG cho nên Tướng Hiếu đã ra lệnh cho LD3KB/LLXKQDIII phải qua đêm ở Lai Khê . Bởi vì sự an toàn cho TG và nếu di hành đêm đến Lộc Ninh cũng chẳng xuất kích được vì ban đêm LD3KB chỉ là một “hiệp sĩ mù nghe gió kiếm” . Một lần ngủ qua đêm nữ a của LD3KB/LLXKQDIII mà không bị sĩ quan tà lọt châm biếm là cả ngày tác chiến trên trời Không Quân , dưới đất chiến xa tiếp cứu khi còn cách CD8BB khoảng 500 thước, LD3KB/LLXKQDIII thu binh qua đêm, tất cả các chiến đấu cơ của Không lực của Hoa kỳ cũng rời khỏi chiến trường Snoul và sáng ngày mai cùng LD3KB /LLXKQDIII tiếp tục mở đường tiếp trợ Chiến Đoàn 8 BB.

quân sử việt nam, map of snoul battle 1970, snoul campuchea 1970-1971

Sĩ Quan tà lọt lấy cái phóng ảnh trong bài viết của Thiếu Tá Trần Văn Thưởng, TDT 1/8 BB, để chỉ trích Đại Tá Khôi lần nữa . Trung Tá Ánh và Ông SQ tà lọt cho rằng, Đại Tá Khôi khi được lệnh đi giải cứu CD8BB, bèn tắt máy truyền tin đi trốn trong hai ngày khi bị L19 phát hiện rồi thì “Lần Mò” tà tà di chuyển rồi còn ngủ qua 2 đêm tại Thiện Ngôn và Lai Khê cho nên CD8BB đã rút về chỉ còn cách biên giới VN 3 cây số mà LD3KB/LLXKQDIII mới LẤP LÓ ở biên giới Việt-Miên. Những chữ như “Lần Mò, Lấp Ló” hai sĩ quan đệ tử của Tướng Minh muốn nói lên điều gì ? Phải cho Ngụy tui cười một phát vào cách dùng chữ với một ý đồ ma giáo của một SQ tà lọt . Chắc hẳn để nhẹ cú nầy thì Đại Tá Khôi hết đường chối cãi là lè phè, không có tinh thần chiến đấu, không có tinh thần huynh đệ chi binh, và Ngụy tui sẽ tắt tiếng nói chẳng còn lý lẽ gì để phản bác hoặc chạy tội cho Đại Tá Khôi .

Nhắc lại nguyên tắc một cuộc hành quân rút lui phải có lực lượng cản hậu , phải có lực lượng tiếp trợ và không quân pháo binh yểm trợ mạnh mẻ, mới có cơ hội thành công . Xưa nay hành quân lui binh rất nhiều mà thành công rất hiếm . Chính Đại Tá Khôi đã thành công trong trận rút quân tại thung lủng Dambe khi CD333BĐQ và CD5 BDQ cùng LD3KB bị hai Sư đoàn 7 và 9 Cộng Sản Bắc Việt xâm lược vây hảm trước sự bất lực của Trung Tướng Minh (xin xem bài Dambe Cuộc Rút Quân Thần Kỳ , NguySaigon)

Quân Đoàn III đã không tiên liệu được phải mất bao lâu để LD3KB/LLXKQĐIII đến Lộc Ninh . Đã cho CD8BB rút quân đơn độc không lực lượng cản hậu , và thành phần tiếp trợ chưa đến kịp Lộc Ninh . Để rút được tới chừng đó CD8BB đã bị thiệt hại trầm trọng, đang mất dần khả năng di chuyển . Nhìn vào phóng đồ chúng ta thấy gì ? Một chiến đoàn kiệt lực và sắp sửa tan hàng thì 3 cây số là cả một khoảng đường dài vạn dặm . Đó là con đường tử thần . Đó là con đường không bao giờ có thể đi qua được . Đó là đường đi không đến . Thiếu Tướng Hiếu đã bất lực, nhìn những đứa con thân yêu của mình sắp bị tiêu diệt mà trong tay không có một lực lượng nào để có thể giải cứu cho đứa con của mình . Phải ở vào vị trí của Tướng Hiếu mới hiểu được nổi tuyệt vọng, cay đắng, phẩn nộ của một cấp chỉ huy không còn gì trong tay, để cứu đứa con của mình đang sắp chết. Điều động LD3KB/LLXKQDIII từ Suong về Thiện Ngôn, Tây Ninh, Lai Khê rồi tới Lộc Ninh đường quá xa . Chắc chắn với cấp bậc chỉ Đại Tá, Đại Tá Khôi không tự mình vẽ ra đoạn đường chiến bình đầy chông gai mà một CD8BB hết hơi , tuyệt vọng đang cần sự tiếp trợ . Hai đệ tử của Trung Tướng Minh chỉ việc đổ thừa cho Đại Tá Khôi chậm trễ là xong việc . Nhìn phóng đồ lần nữa chúng ta thấy gì ? Chiến đoàn 8BB đang co cụm và đang bị một lực lượng VC hai râu đang tập kích phía sau . Một lực lượng VC khác ba râu và hai râu đang đặt phục binh để tiêu diệt CD8BB bên hông . Còn thành phần trừ bị của chúng, chúng ta không biết . Nhưng theo sách vở binh thư thì phải hơn lực lượng phục binh . Chúng ta đã thấy rõ số phận nghiệt ngã của CD8BB . Tan Hàng hoặc Đầu Hàng . Rất đơn giản . Trách nhiệm thuộc về ai ? Hai đệ tử của Tướng Minh hãy cho Ngụy tui biết .

quân sử việt nam, snoul campuchea 1970-1971

Địa thế rừng sình lầy không thích hợp cho đội hình TG cần một chiến trường trống trải, để phát huy hết đặc tính và khả năng của TG là MAU-MẠNH . Lực Lượng Không Kỵ Hoa Kỳ (LKKHK) đã đánh mạnh vào lực lương tập kích của VC để bảo vệ phần phía sau của C Đ8BB và LĐ3KB/LLXKQĐIII đã tấn công mạnh mẻ vào lực lượng phục binh VC cùng sự yểm trợ đắc lực của LLKKHK mà Đại Tá Khôi đã hiện diện trên trực thăng chỉ huy của Thiếu Tá David Russell . Qua trung gian của TT Russell, Đại Tá Khôi đã đánh trực diện lên đầu của đoàn quân cứu viện . Đại tá Khôi đã phải đánh như thế mới có thể cứu được CD8BB. Điều cần nói mà hai sĩ quan tà loọt chưa bao giờ nghĩ tới . Đó là hiện diện trong Chiến đoàn 8BB có Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh . Trung Tá Tôn Thất Hoàng Thiết Đoàn Trưởng và Thiếu Tá Trương Hồng Cẩm , Thiết đoàn phó cùng toàn thể Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh là những đàn em thân tín của Đại Tá Khôi . Họ đã từng chiến đấu, cùng sống chết với Đại Tá Khôi trên khắp các chiến trường máu lửa . Lý do nào mà Đại Tá Khôi ngoảnh mặt làm ngơ không đi cứu những kỵ binh mà ông đã coi như là anh em ruột thịt .

Đọc phần kết luận của Sĩ quan tà lọt, Ngụy tui lại tức cười lần nữa . Nhìn phóng đồ đính kèm trên mà ông Tà Lọt cho rằng chiến đoàn 8BB đã rút về VN rồi mà Đại Tá Khôi còn “ngủ qua đêm” lại còn lớn lối không thèm bút chiến với Ngụy tui sau khi cao giọng dè biểu cái tên Ngụy Saigon của tui và cho rằng Ngụy tui có một lý lịch không rõ ràng . Bút chiến gì ông SQ tà lọt và bút chiến với ai ? Ông SQ đệ tử Nguyễn Ngọc Ánh đã được Ngụy tui gửi đến bài viết “SNOUL : Trận Chiến Hào Hùng của LD3KB/LLXKQDIII” để cho Trung Tá Ánh có cơ hội phản biện phản bác hay giải thích . Tr/Tá Ánh chọn thái độ im lặng .. Còn ông Sĩ quan tà lọt Nguyễn Ngọc Tùng thì lớn lối không thèm bút chiến với Ngụy tui . Nói thẳng và nói thật là cả hai ông sĩ quan đệ tử của Tướng Minh không đủ tư cách và khả năng để bút chiến với Ngụy tui, mặc dù cấp bậc trong QLVNCH của hai ông quá cao so với Ngụy tui .

Ông sĩ quan tà lọt cho rằng Ngụy tui lý lịch không rõ ràng . Thế nào là lý lịch rõ ràng . Chịu ! Ngụy tui không thể hiểu ông SQ tà lọt dựa vào tiêu chuẩn nào để phán rằng Ngụy tui có lý lịch không rõ ràng . Cả binh chủng TGB đều biết họ tên, cấp bậc, đơn vị của Ngụy tui, lại còn tham dự Đại Hội Thiết Giáp Binh. Ngụy tui cũng thường xuyên gặp gở các cấp chỉ huy trực tiếp và các Sĩ Quan cùng đơn vị, mà bảo rằng lý lịch không rõ ràng. Ngụy tui là một Sĩ Quan mới toanh của Quân Lực VNCH , cấp bậc thấp nhất hàng Sĩ Quan . Chưa từng biết và chưa từng nghe đại danh của Danh Tướng Trần Quang Khôi cho nên bảo rằng Ngụy tui là đệ tử của Tướng Khôi là trật lất. Ông SQ tà lọt rất chủ quan cho rằng không hề có sự hội ý của Tướng Khôi và Ngụy tui khi bài viết được đăng lên . Lại trật lất nữa . Như đã nói phần trên, khi cuộc rút lui của CD8BB ở Snoul xảy ra thì Ngụy tui chưa là lính vẫn còn tà tà trốn lính ở Đại Học Khoa Học Saigon. Nếu không hội ý thì biết gì mà viết bài phản bác phản biện hai ông SQ đệ tử Tướng Minh . Tướng Khôi từng có những cuộc trò chuyện qua điện thoại với Ngụy tui từ 1AM ET đến 7:00AM ET mà Tướng Khôi chưa hề biểu lộ sự mệt mỏi .

Bây giờ để Ngụy tui bàn về hai ông Tướng : Trung Tướng Nguyễn Văn Minh và Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi . Trung Tướng Minh xuất thân từ SQ chuyên nghề chạy chọt . Có Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đở đầu khi Tướng Khiêm còn là Tư Lệnh SD21BB . Làm Tỉnh Trưởng . Nhờ chạy chọt lên nắm Tư Lệnh SD21BB ( Giống như trường hợp Đại Tá Mạch Văn Trường sau nầy). Một Sư Đoàn trứ danh thiện chiến ở Vùng 4 Chiến Thuật mang danh Sấm Sét Miền Tây . Lên Tướng ở đây . Nổi danh cũng ở đây . Nổi danh không phải vì tài thao lược mà vì chạy chọt, quà cáp biếu xén cho xếp và đệ tử của xếp . Thời Tướng Minh là Tư Lênh SD21BB trận chiến chỉ đến cấp Tiểu đoàn là hết mức . Nghe Đại úy Phan Nhật Nam , SQ Nhảy dù, cho biết vào thời đó Tiểu Đoàn Trưởng ND uống cognac tắm nước nóng cầm gậy chỉ huy ở hậu cứ chứ không có mặt tại chiến trường . Vào lúc đó khi chưa có SA7 chưa có phòng không 37 ly, 57 ly …,trực thăng là vũ khí mới , chiến thuật trực thăng vận áp đảo và thống lỉnh chiến trường, là hung thần, là nỗi chết khôn nguôi của VC cho nên các cuộc hành quân trực thăng vận của SD21BB chiến thắng hoàn toàn . Tướng Minh chỉ việc ở nhà lo quà cáp biếu xén cấp trên . Chuyện chiến trường có các Tiểu Đoàn Trưởng hay Trung Đoàn Trưởng lo toan . Tướng Minh khỏe re như con bò kéo xe không . Lên Chuẩn Tướng, Thiếu Tướng và Trung Tướng qua mặt luôn một ông Tướng đàn anh nổi tiếng tài ba thao lược và thanh liêm là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu . Trung Tướng Minh được thầy là Phó TT Trần Văn Hương đề cử vào chức vụ TLQDIII&QKIII thay thế Trung Tướng Đổ Cao Trí đền nợ nước . Trong cương vị TLQDIII&QKIII , Tướng Trí đã tung lực lượng QDIII rượt đánh các SD 5,7,9 của Bắc Việt chạy tán loạn rút về bên Miên, phá hủy hầu hết các căn cứ dưởng quân hậu cần của VC , Mặt trận GPMN phải trốn chui trốn nhủi ở Kratie’ thì Tướng Minh khi cầm quân đã dần dần lui quân về VN và các Sư Đoàn Bắc Việt sau khi bổ sung huấn luyện, tiếp tế đầy đủ, đã chiếm Lộc Ninh xóa sổ Chiến Đoàn 9BB và Thiết Đoàn 1 KB chỉ trong hai ngày và vây hãm An Lộc Bình Long . Nếu không có các đơn vị như LD81BCD, LD1ND, LD3BDQ , cùng SD21 và Trung đoàn 15 BB từ Vùng 4 tăng viện thì Sàigòn đã lâm nguy . Tướng Minh đã có công với VC là làm tê liệt và làm tan nát một đơn vị trừ bị bách chiến bách thắng của QĐIII là LĐ3KB/LLXKQĐIII khi giao cho một đàn em thân tín trong băng Miền Tây chỉ huy . Cho nên trong trận chiến An Lộc chiến xa T54, T59, PT 76 của VC tham chiến không có đối thủ bởi vì Tướng Minh đã phân tán, đã xé nát tan một đơn vị cơ động bách chiến bách thắng đã tung hoành ngang dọc tại Dambe, Chlong, Kreg, Snoul , Suong …đã đánh tan một đơn vị VC để giải cứu TĐ 30 BDQ bị vây hãm tại căn cứ Alpha . Ngày tàn chiến trận trong cương vị Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, đã bỏ ngỏ BKTĐ ngày 29 tháng 4 năm 1975 đã bỏ quân, bỏ thành mà chạy trốn ra khỏi nước . Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân Đoàn III chỉ còn mỗi đơn vị LĐ3KB/LLXKQDIII do Tướng Khôi chỉ huy . Đã quyết định bỏ Biên Hoà, kéo quân về bảo vệ thủ đô Saigon . Để tránh bắn lầm quân bạn , Tướng Khôi liên lạc Biệt Khu Thủ Đô để thông báo đại quân của Tướng Khôi đang kéo về Saigon nhưng không thể liên lạc được bất cứ ai trong bộ Tư Lệnh BKTD . Chúng ta nên gọi Tướng Minh là gì ? Là tẩu tướng chăng ?

Tướng Khôi không phải là một YES MAN nên cuộc đời binh nghiệp của Tướng Khôi rất là lận đận . Trung úy đã có Đệ Tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương . Mang lon Đại úy 9 năm trời . Tướng Khôi thời còn làm Chiến đoàn trưởng chiến đoàn 4 TG đã bị Tướng Tôn Thất Đính và Tướng Lâm Văn Phát hai tướng gốc TG trù dập vì tính tự chủ và độc lập . Không chấp nhận cho xé lẻ TG ra . Tướng Khôi quan niệm phải là toàn khối thì mới phát huy hết sức mạnh của TG . Khi là chiến đoàn trưởng CD 5 TG, đã từng bị Đại Tá Battreall đề nghị Đại Tướng Westmorerland yêu cầu Đại Tướng Cao Văn Viên cách chức vì không nghe cố vấn Mỹ . Khi mất quyền chỉ huy CD5 TG ,ngồi chơi xơi nước, năm 1967 xin đi học Tham Mưu Cao Cấp Lục Quân HK tại Leavenworth nhưng bị Hoa Kỳ từ chối . Tướng Khôi đã không được lòng cố vấn Mỹ . May mắn Trung Tướng Đỗ Cao Trí lúc ấy đã giải ngũ, được TT Thiệu cử làm Đại sứ VN tại Đại Hàn Dân Quốc . Tướng Trí đã đưa Trung Tá Khôi đi làm Tùy Viên Quân sự Toà Đại sứ VN tại Đại Hàn . Năm 1968 Tướng Trí tái ngũ, được TT Thiệu cử làm Tư lệnh QDIII và QKIII , Đại Tá Khôi đã trở thành một cánh tay đắc lực của vị Tướng Tư lệnh Quân Đoàn can đảm và có tài thao lược từng được mệnh danh Patton Việt Nam . Tướng Khôi đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh phó SD18BB . Với chức vụ nầy Đại tá Khôi đã tổ chức huấn luyện SD18BB . Ông đã từng đi theo cấp Tiểu đoàn để hướng dẫn huấn luyện các Tiểu đoàn trưởng và các Sĩ quan . Đã đưa ra chương trình tuyển mộ quân nhân tình nguyện có thưởng . Dần dần SD18BB đã khởi sắc . Đã từng tạo chiến tích huy hoàng khi chỉ huy Chiến Đoàn 318 xung kích trong các cuộc hành quân Toàn Thắng tại đất Miên . Khi Đại Tá Khôi sắp sửa thay thể Chuẩn Tướng Vũ Kế Giai trong chức vụ Tư lệnh SD18 BB thì LD3KB được thành lập . Đại Tá Khôi đã rời SD18BB để trở về binh chủng TGB . Đã tổ chức, huấn luyện LD3KB và được sự chấp thuận của Tướng Trí , đã thành lập , tổ chức và huấn luyện Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III , một đơn vị trừ bị cho Quân đoàn III với đặc tính di động nhanh, hỏa lực mạnh mẻ , có thể có mặt nhanh chóng và có khả năng tham chiến độc lập trên các chiến trường trong phạm vi Quân Đoàn III với sức mạnh tương đương một sư đoàn. Đã tạo ra những chiến thắng thần tốc tại Dambe, Suong, Kreg, Chlong, Hố Bò, Khiêm Hanh, An Điền, Rạch Bắp… dưới sự chỉ huy và điều động của vị Tướng lừng danh QLVNCH , Đỗ Cao Trí, LD3KB/LLXKQDIII đã là thanh thượng phương bảo kiếm đã làm bạt vía quân thù trên khắp chiến trường QDIII . Khi Tướng Trí đền xong nợ nước , Tướng Minh được PTT Trần Văn Hương đề cử làm Tư Lệnh QDIII và QKIII thay thế Tướng Trí . Dưới quyền chỉ huy của Tướng Minh , QDIII đã co cụm, đã phải rút quân về VN diện địa , các SDBV xâm lược an toàn đóng quân tại đất Miên , bổ sung quân số , tiếp liệu đầy đủ, đã tấn công Lộc Ninh chiếm Lộc Ninh chỉ trong hai ngày và uy hiếp An Lộc . Đại Tá Khôi không thể làm việc với một ông Tướng phe đảng , thiếu bản lảnh, thiếu kiến thức quân sự, không có cái uy cái dũng của một Tướng Lãnh cầm quân tại mặt trận . Chỉ ngồi trên trực thăng để chỉ huy mà không bao giờ đáp xuống mặt trận để gặp gở hội họp cùng các Chiến đoàn trưởng nhất là để nâng cao tinh thần ba quân tướng sĩ đang tham chiến . Đặc biệt Tướng Minh không biết điều động TG cho nên Đại Tá Khôi xin từ chức và xin đi học Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ vì không thể làm việc với một tướng lãnh chuyên nghề chạy chọt và phe đảng tham nhủng .

Khi Hiệp định Paris được ký kết, các khóa sinh người Mỹ cùng khóa Tham Mưu Cao Cấp Hoa Kỳ đã đề nghị giúp đở Đại Tá Khôi ở lại Mỹ vì chiến tranh VN đã chấm dứt . Đại Tá Khôi quyết định trở về nước . Ngày hai buổi đi dạy ở Trường Tham Mưu Cao Cấp (TMCC), sống đời công chức an nhàn dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị . Thời điểm nầy chiến trường sôi động nhưng bất lợi cho QLVNCH, vì những ràng buộc hạn chế về viện trợ và vũ khí theo tinh thần Hiệp định đình chiến Paris một đổi một , và dù cuộc sống an nhàn tiện nghi có nhiều thì giờ gần gủi  cùng gia đình nhưng trách nhiệm của một người lính, đã thôi thúc Đại Tá Khôi phải trở lại chiến trường . Được sự chấp thuận của Tướng Ngô Quang Trưởng , Tư Lệnh QDI/QKI , Đại Tá Khôi được Tướng NB Trị , Chi Huy Trưởng Trường TMCC đồng ý cho Đại Tá Khôi ra làm Tư Lệnh LD1KB trấn đóng vùng hỏa tuyến . Nhưng cùng lúc Trung Tướng Phạm Quốc Thuần được TT Thiệu đề cử làm Tư Lệnh QDIII/QKIII thay thế Tướng Nguyễn Văn Minh, đã xin TT Thiệu can thiệp cho Đại Tá Khôi trở về chỉ huy LD3KB .Giữa LD1KB và LD3KB, Đại Tá Khôi đã chọn LD3KB, đó là đứa con, là tâm huyết của Đại Tá Khôi . Đại Tá Khôi đã làm sống lại LD3KB và xin Trung Tướng Thuần cho thành lập lại LLXKQDIII . Từ đó LD3KB / LLXKQD III tái xuất giang hồ , đã làm khiếp đảm quân thù . Điển hình là trận giải tỏa căn cứ Biên Phòng Đức Huệ . Khi SD25 BB đã thất bại trong nổ lực giải tỏa căn cứ thì Tướng Khôi được Tướng Thuần trao nhiệm vụ thảo kế hoạch giải tỏa căn cứ Đức Huệ, nơi đó hơn 400 chiến sĩ BDQ Biên Phòng và gia đình đã tử thủ gần tháng trời không được tiếp tế, tản thương vì phòng không quá mạnh . Tướng Khôi lập kế hoạch phải vượt biên qua Miên và tấn công phía sau Sư Đoàn 5 CSBVXL . Vì sự tế nhị ngoai giao, Tướng Thuần bác kế hoạch nầy và yêu cầu Tướng Khôi làm kế hoạch khác . Tướng Khôi đã nài nĩ, đã thuyết phục Tướng Thuần chấp thuận vì không có một kế hoạch nào khác khả dỉ . Tướng Khôi trình với Tướng Thuần “Chúng ta không thể yên lặng bất động để hơn 400 chiến sĩ và gia dình bị cộng quân tiêu diệt mà không có một phản ứng thích hợp và cần thiết nào” . Cuối cùng kế hoạch được TT Thiệu chấp nhận . Chỉ một ngày Tướng Khôi và LD3KB / LLXKQDIII đã đánh tan SD5 CSBVXL tịch thu rất nhiều vũ khí và hỏa tiển . Một kế hoạch đã làm TT Thiệu thích thú . Một chiến công đã làm kinh động tất cả các giới chức, các tùy viên quân sự trên thế giới. Đã được các giới chức cao cấp Hoa Kỳ khen ngợi. Đặc biệt Đại Tá Battreal, người có công tổ chức, thành lập , yểm trợ cho Thiết Giáp Binh đã nhận định đây là chiến thắng oanh liệt nhất trong Chiến Tranh Viet Nam và xếp hạng Tướng Khôi là một trong 4 Tướng Lãnh Kỵ binh xuất sắc nhất thế giới trong thế kỷ 20 .

Ngày tàn cuộc chiến . Khi gia đình đã được di tản theo lời yêu cầu của Tướng Khôi . Tướng Khôi đã quyết định ở lại, đã kêu gọi tinh thần yêu nước , danh dự và trách nhiệm của người chiến binh QLVNCH chiến đấu đến cùng . LĐ3KB / LLXKQĐIII và các đơn vị tăng phái như LĐ468 TQLC và LĐ2ND là lực lượng cuối cùng của QĐIII / QKIII còn tại hàng chiến đấu . Đã đánh tan một Trung Đoàn VC có chiến xa T54 tại căn cứ Nước Trong , Trường Thiết Giáp Long Thành , gây thiệt hại nặng nề cho SĐ341 BVXL tại Biên Hoà và sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 đang kéo quân về để bảo vệ SG thì được lệnh đầu hàng vô điều kiện . Tại thời điểm đó , Tướng Khôi đang có hai trực thăng C&C tại trại Phù Đổng ông đã từ chối lời đề nghị của Thiếu Tá Cơ, phi công trực thăng, tình nguyện đưa Tướng Khôi di tản ra Hàng Không Mẫu Hạm Mỹ . Ra đi lúc đó không ai dè biểu hay dị nghi vì Tướng Khôi đã làm xong nhiệm vụ của một Tướng Lãnh, đang cầm quân tại mặt trận không bỏ đơn vị, không bỏ chiến sĩ, để đào thoát . Đã chấp nhận ở lại cùng ba quân để giữ lời cam kết cùng sống chết với các chiến sĩ cũng như danh tướng Đỗ Cao Trí đã cùng sống cùng chết và cùng nằm chung với các chiến sĩ tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà như lời cam kết ngày nào tại chiến trường Cambodia.

quân sử việt nam, đại tướng nguyễn văn hiếu, tướng nguyễn văn toàn, chuẩn tướng trần quang khôi, snoul campuchea 1970-1971

Từ trái sang phải, Tướng Nguyễn-văn-hiếu, tướng Nguyễn-văn-Toàn, tướng Trần-quang-Khôi. 

Tướng Khôi với tinh thần và danh dự của người chiến sĩ , đã được các chiến sĩ BĐQ, Thiết Giáp, Nhảy Dù , TQLC , Pháo Binh, Truyền tin, Tiếp vận .. tin tưởng và ngưỡng mộ . Những tinh thần đó không thể một ngày một tháng mà có được . Tại sao các chiến sĩ LD3KB/LLXKQDIII cùng các đơn vị tăng phái ND, TQLC đã chấp nhận ở lại không tan hàng tháo chạy , vửng tay súng cho đến giờ phút cuối cùng ? Chắc chắn các chiến sĩ đó đã thấy được, trong quá khứ, đã tin tưởng phẩm chất cao đẹp của một Tướng Lãnh cầm quân, nguyện chiến đấu và hiến thân dưới cờ vàng. Một vị Tướng đã ở lại để cùng chia gian khổ nhục nhằn kiếp tù binh thất trận mất nước 17 năm ròng rả . Tại sao VC phải bắt ngay Tướng Khôi tại nhà ngay khi vừa bước đôi dép râu vào Saigon ? Chắc chắc bọn VC đã hiểu được Tướng Khôi là một người rất nguy hiểm cho chúng nó . Một Tướng Lãnh có uy tính vừa quyết liệt vừa có tư cách và tài thao lược của một Tướng Lãnh được các chiến sĩ tuyệt đối tin tưởng và nghe theo . Nếu Tướng Khôi chỉ là một người thiếu trách nhiệm không có tinh thần đồng đội . Một người khi nhận nhiệm vụ đi tiếp cứu quân bạn mà Lần Mò, Lấp Ló, Ngủ Qua Đêm thì ngay sau khi về nước làm sao Danh tướng Ngô Quang Trưởng và Trung Tướng Phạm Quốc Thuần tin cậy và tín nhiệm trao nhiệm vụ chỉ huy LDKB . Chỉ vài tháng sau khi về nước , TT Thiệu đã gắn sao cho Đại Tá Khôi . Trong 4 Đại Tá được đề cử lên Chuẩn Tướng , Đại Tá Khôi đảm nhiệm chức vụ thấp nhất là Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 KB . Trong khi các Đại Tá khác là Đại Tá Nguyễn Hữu Toán , Tư Lệnh SD25BB, Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh SD5BB và Đại Tá Ngô Văn Minh, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn (thang 1, năm 1974). TT Thiệu đã chỉ chọn Đại Tá Khôi , người có chức vụ thấp nhất trong 4 Sĩ Quan được đề cử . Khi được hỏi tại sao TT Thiệu lại chọn Đại Tá Khôi chỉ là Tư Lệnh Lữ Đoàn, TT Thiệu đã trả lời đúng ra Khôi lên Tướng từ thời Trung Tướng Đổ Cao Trí làm Tư Lệnh QDIII . Nhưng vì Khôi còn quá trẻ nên bây giờ mới lên Tướng . Chỉ vài tháng sau, Tướng Khôi đã chứng minh quyết định TT Thiệu là đúng khi ông đã thể hiện được tài thao lược tinh thần quyết chiến quyết thắng nhất là tình huynh đệ chi binh trong trận đánh giải tỏa căn cứ Biên Phòng Đức Huệ . Những ngày cuối cùng của cuộc chiến LD3KB/LLXKQDIII đã trấn đóng Ngã Ba Dầu Dây – Hưng Lộc, chặn đứng Quân Đoàn 4VC. Đã tiếp cứu Chiến Đoàn 52 /SD18BB không bị tràn ngập . Đã giữ vửng Biên Hoà trong ngày cuối cùng của cuộc chiến . Chỉ buông súng tan hàng khi vị Tổng Tư Lệnh ra lệnh ngày 30 tháng tư năm 1975 lúc 10 giờ sáng .

Với một tư cách như thế, với một phẩm chất như thế Tướng Khôi đã trở thành biểu tượng hào hùng bất khuất của một kỵ binh đã cống hiến cả đời trai trẻ cho Tổ Quốc , cho Quân Đội . Chưa bao giờ lùi bước trước kẻ thù . Đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến . Đã ở lại để cùng chia xẻ với các chiến sĩ đủ mọi binh chủng, những nghẹn ngào cay đắng tủi nhục của một người lính bại trận . Đã ở 17 năm trong ngục tù Cộng sản vẫn giữ phẩm chất và tinh thần cao đẹp của người chiến sĩ QLVNCH . Bằng câu tuyên bố : ” Nếu phải làm lại từ đầu, tôi (Tướng Khôi) vẫn làm như thế . Dù biết rằng tôi sẽ mất tất cả trừ DANH DỰ” .

Hai đệ tử của Tướng Minh là Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh và Đại úy(?) Nguyễn Ngọc Tùng là hai tay súng thiếu lương thiện . Thay vì chỉ trích Tướng Khôi là Trốn Tránh, Lần Mò, Lấp Ló, Ngủ Qua Đêm trong việc giải cứu Chiến Đoàn 8 BB để chạy tội cho Thầy là Tướng Minh vì bất tài hay vì một lý do khác là muốn tạo một bằng cớ để thay thế vị tướng tài đức thanh liêm Nguyễn Văn Hiếu,Tư Lệnh SD5BB, bằng Đại Tá Lê Văn Hưng trong Băng Miền Tây của Tướng Nguyễn Văn Minh .

Trước khi chỉ trích những người khác , hai đệ tử nên thay mặt ông thầy là tướng Minh trả lời câu hỏi của Thiếu Tá Trần Văn Thưởng . Câu hỏi không có câu trả lời đã làm nhức nhối con tim của vị Tiểu Đoàn Trưởng, có mặt trong trận lui binh tại Snoul, suốt cả đời là “Tại sao Tướng Minh cho Chiến Đoàn 8 BB rút quân đơn độc ?” Câu trả lời đã theo Tướng Minh đi qua bên kia thế giới. Có phải để tạo ra một lý do để cách chức Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu , Tư lệnh SĐ5BB, Đại Tá Bùi Trạch Dzần, Chiến Đoàn Trưởng CĐ8BB và Đại Tá Trần Quang Khôi, Tư lệnh LĐ3KB – Những người không thuộc băng Miền Tây của Tướng Nguyễn Văn Minh. Thay thế vào những chức vụ đó là những đàn em thân tính như Đại Tá Lê Văn Hưng, Đại Tá Nguyễn Kim Đinh, Trung Tá Mạch Văn Trường .

Quý ông, Trung Tá Anh và SQ tùy viên Nguyễn Ngọc Tùng đại diện Tướng Minh để giải thích lý do tại sao với tư cách là Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô , Tướng Minh đã đào ngũ ngày 29 tháng 4 năm 1975 , bỏ ngỏ BKTD để chạy làng, để trở thành một Tẩu Tướng .

Quý ông , Tướng Minh và các đệ tử thuộc băng Miền Tây không có tư cách gì để chỉ trích phê phán những Tướng Lãnh hay các Sĩ Quan QLVNCH từ bây giờ cho hết đời của quý ông .

Kỵ Binh NguySaigon
1/11/2014

Chú thích:

https://baovecovang2012.wordpress.com/2014/11/11/snoul-tuong-rang-da-xong-kb-nguysaigon/

***

Hành Quân Ngoại Biên (70-71) Cùng Những Hệ Lụy Về Chính-Trị

1. Bối Cảnh Địa-Dư và Chính-Trị:

A/ Vấn đề biên-giới, nói một cách tổng quát, về phương diện địa-dư được bao gồm lãnh thổ và cả lãnh hải, được gắn liền với chủ quyền của một nước. Đó là một vấn đề căn bản và quan trọng, đòi hỏi hai (hoặc ba) quốc-gia láng giềng với nhau, phải nghiêm túc tôn trọng.

Mức độ tranh chấp, nếu có, của những nước cùng chia sẻ biên giới, còn tùy thuộc vào một vài yếu tố như thái độ của dân chúng; như chủ trương hoặc thể chế chính-trị của đôi bên có tương thuận hay không? Vì thế, một khi đã coi là người láng giềng, hai quốc-gia thường cố tránh những hành động dễ đưa đến những gây hấn, nhất là về mặt quân sự; Vì thế các cuộc hành quân của đôi bên đều tránh né diễn ra tại vùng ven biên. Do tính chất tế nhị đó, đôi khi khu vực giữa lằn ranh giới được “bỏ ngỏ”; không ngoài tính cách nhằm giảm thiểu những chuyện đụng độ, gây phiền nhiễu, ảnh hưởng không tốt trên phương diện ngoại giao. Khu vực “bỏ ngỏ” vừa đề cập, đôi khi có chiều rộng cả gần cây số tại vùng đất của đôi bên; Cũng còn được ám chỉ như một “khu vực không có người” (No Man’s Land Zone). Vùng “không người” đôi khi còn được áp dụng như một hàng rào kiểm soát vô hình, ngăn ngừa những cuộc giao chiến, được dự trù sẽ xẩy ra giữa hai nước thù nghịch; Thí dụ khu vực dọc theo Vĩ-tuyến 38, ấn định làm “Hòa” tuyến giữa hai miền Nam Bắc Triều-tiên sau Hiệp-định ngưng bắn được ký năm 1953 tại Bình-nhưỡng; Hoặc giải đất phải được kể là “không người” ở hai bên Vĩ tuyến 17 tại Việtnam.

Lịch-sử có khi cũng đã chứng minh vùng không có người này (do hai nước tôn trong biên giới của nhau) đã không may bị kẻ thứ ba, thâm độc, bí mật thực hiện mưu đồ đen tối. Kẻ thứ ba này lợi dụng vào sự “ít được kiểm soát” tại vùng ven biên giữa hai quốc-gia, đã xử dụng giống một hành lang, lén lút di chuyển quân đội và vũ khí đến tấn công, gây rắc rối cho một trong hai nước láng giềng như vừa nêu trên.

Kể từ sau Hiệp-định Genève năm 54, tình trạng “xâm nhập bất hợp pháp” của lực lượng Bộ đội CS Bắc việt đã xẩy ra tại khu vực biên giới giữa Việt-Nam Cộng hòa với Cambốt (cũng như Lào). “Kẻ thứ ba, thâm độc” được nêu ra ở đây chính là Hồ-chí-Minh, vừa là một sáng lập viên lại vừa kiêm cả chủ tịch Đảng, gồm Việt minh và Cộng sản Việtnam.

Chủ tọa một buổi họp của Bộ chính-trị Trung Ương Đảng CS Bắc việt, tổ chức tại Hà-nội ngày 20-12-1960 (1), Hồ-chi-Minh tuyên bố thành lập ’Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’ (MTGP); Đồng thời gấp rút thúc đẩy việc khai thông một con đường mòn lấy tên là HCM, dùng làm đường ‘giao liên’, trải dọc theo biên giới giữa 3 quốc-gia Lào, Cambốt và Việt-nam Cộng-Hòa, nằm phía tây rẫy núi Trường Sơn. Hành động này đương nhiên chứng tỏ trước thế giới sự vi phạm trắng trợn bản Hiệp-định Genève do chính họ Hồ cùng tập đoàn Việt minh CS đã đặt bút ký kết với Pháp năm 1954.

Theo một tài liệu ghi nhận được của cơ quan tình báo Mỹ (CIA), vào thời điểm này, Hà-nội đã chỉ thị cho thành lập hai (02) căn cứ quân sự chính ở dưới Vĩ-tuyến thứ 17; Một, nằm tại vùng phía Tây, Cao nguyên Trung phần (QK 2) và căn cứ thứ Hai, thuộcTỉnh kiêm Tiểu khu Tây-ninh, tọa lạc ở phía tây của QK 3. Đây là một khu vực hình tam giác, phía nam của QL1; Trục lộ giao thông chính thức nối liền từ thành-phố Sàigòn qua Tỉnh Tây-ninh lên tới thủ-đô Phnompenh của Cambốt. Đường biên giới có hình tam giác, mà đỉnh nhọn nằm giữa ranh giới Cambốt với các Tỉnh Hậu-nghĩa, Tây-ninh (QK 3) và Kiến-tường (QK 4).

Địa điểm thứ hai, cũng được nghi ngờ là cơ sở tiếp vận ‘hậu cần’ quan trọng của CS Bắc việt và phe MTGP. Tại nơi đây cộng quân tích trữ vũ khí, nhiên liệu và thực phẩm được lén lút xâm nhập vào hàng loạt bằng đường mòn HCM. Nguồn tin tiết lộ thêm, có địa điểm còn phát hiện được cả một ‘Trạm cứu thương‘, đặt ngầm dưới mặt đất (?).

Nhờ doanh trại được ẩn dấu giữa rừng cây, nên Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R) mới có cơ hội hoạt động dễ dàng vì tương đối khó bị quan sát. Cho nên nơi đây cũng còn được mệnh danh là ‘Mật khu An toàn’. Tuy nhiên để tránh khỏi sự phát hiện, bộ chi-huy của MTGP phải di động, chạy trốn thường xuyên “như một bóng ma”, từ địa điểm này đến địa điểm khác trong vùng rừng cây bát ngát của các đồn điền cao-su tọa lạc trong vùng biên giới, mà phần sở hữu chủ thuộc về cá nhân, hoặc chính-phủ Pháp (?).

[Qua các nguồn tin tiết lộ, mật khu ‘An toàn’ (!) của cộng quân còn bị nghi ngờ là chỗ giam giữ, thẩm vấn các tù binh. Tiếp theo, đặc biệt là tù binh Mỹ, sẽ được bí mật vận chuyển ra Bắc (?)]

B/ Đối với thế-giới, Cambốt được công nhận là một nước Trung lập. Tuy nhiên khối CS quốc-tế vẫn cứ tiếp tục xúi dục, yểm trợ cho một ‘Đảng phái đối lập’ hoặc chính-phủ ‘Trung Lập thân Cộng’. Vài thí-dụ như Pathét Lào hay Khmer Đỏ là hai nước cùng có chung biên giới với Việt-nam Cộng-hòa; Do đó mới có dịp bao che cho các vụ xâm nhập bất hợp pháp của CS Bắc việt, cho mưu toan thúc đẩy cuộc chiến tranh xâm lăng vào miền nam VNCH.

Hơn nữa, một số sự kiện quân sự kể như ngẫu nhiên, đã xẩy ra trong khoảng nửa năm đầu của 1970. Các diễn tiến đề cập sau đây (1) được kể là quan trọng, gây ảnh hưởng chung cho vận mệnh của cả hai quốc gia, VNCH và Kampuchia (Cambốt).

Những sự kiện này đã gây nên cuôc “khủng hoảng chính-trị” của Hoa-kỳ lúc bấy giờ. Hơn nữa còn tạo bất lợi cho cuộc chiến đấu tự vệ của miền nam VNCH trước mưu đồ xâm lược của tập đoàn CS Bắc việt :

-- Một trong các buổi họp của Hội nghị Ba-lê, thảo luận về vấn đề ngưng bắn; Ngày 21-2-70, Lê-đức-Thọ (CS Bắc việt và VC) cùng Kissinger (Mỹ) tiếp tục “NÓI CHUYỆN RIÊNG RẼ VÀ BÍ MẬT’ với nhau về vận mệnh của các nước ở Đông nam Á châu. Riêng tại VN họ Lê vẫn ngoan cố phản đối “việc rút quân song phương”; Theo đó, CS Hà-nội bắt buộc phải rút khoảng hơn 150,000 quân Chính quy, Bộ đội ra khỏi miền nam VN, tức VNCH, cùng với việc hồi hương toàn bộ lực lượng của Mỹ.

-- Ngày 11-3-70: Khoảng 20,000 người biểu tình tại Thủ-đô Phnompenh, mục đích phản đối Bộ đội CS Bắc việt và VC hiện diện trên lãnh thổ Cambốt. Đồng thời Thủ tướng Lon-nol ngỏ lời xin lỗi, vì kết quả của cuộc biểu tình, dân chúng Khmer đã tấn công tòa Đại sứ CS Hà-nội và Chính-phủ Lâm thời Miền nam (Provisional Revolutionary Government of SVN).

-- Tiếp theo ngày hôm sau, chính-phủ Cambốt hủy bỏ Khế Ước Mậu Dịch; Không cho CS Bắc việt và VC được phép xử dụng Sihanoukville như một hải cảng để Nga sô (tận dụng đường biển) thực hiện chương trình yểm trợ quân viện, để châm thêm vũ khí, đạn dược cũng như nhiên liệu cho quân CS Bắc việt và VC hiện đang khuấy phá tại vùng biên giới Cambốt và VN.

-- Sau chuyến công du Moscow và Bắc-kinh, ngày 18-3-70 Sihanouk bị lật đổ bằng một cuộc đảo chánh không đổ máu của Tướng Lon-Nol (đảm nhiệm chức vụ Thủ-tướng kiêm Bộ trưởng Quốc-phòng) và Hoàng thân Sirik Matak (trong chức vụ Đệ Nhất Phó Thủ-tướng). (Với một thành phần chính phủ mới, Cambốt đã tiếp nhận một khoản tiền viện trợ là 300 triệu Đô-la của Hoa-kỳ cho lãnh vực kinh-tế và quốc phòng)

-- Ngày 20-3-70: Lần đầu tiên trong một cuộc hành-quân của lực lượng Cambốt có sự hỗ trợ của quân đội VNCH và lực lượng đồng-minh, đã đẩy lui cuộc tấn công một đơn vị CS Bắc việt tại vùng biên giới, khoảng 16 cây số phía bắc Thị trấn An-phú (QĐ 4).

-- Nhà cầm quyền CS Hà-nội, trong âm mưu duy trì Bộ đội Bắc việt tại Cambốt; Ngày 21-3-70, Lê-duẩn đã bí mật cử Phạm-văn-Đồng (Thủ tướng Bắc việt), sang Bắc-kinh thảo luận với Chu-ân-Lai (Thủ tướng TC) để giúp Hoàng thân Sihanouk thành lập một chính phủ mới, thân Cộng cho Cambốt.

Hai ngày sau đó tại Bắc-kinh, Sihanouk hô hào dân chúng Khmer thành lập lực lượng võ trang chống lại chính phủ của Thủ tướng Lon-nol tại Phnompenh; Đồng thời hô hào thành lâp Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia Kampuchia (National United Front of Kampuchia= NUFK).

Do đã có sẵn âm mưu, tổ chức của Sihanouk được Trung Cộng đỡ đầu, lập tức được sự thừa nhận của đồng bọn CS Bắc việt, Mặt trận Giải phóng (MTGP), Pathét Lào (Lào cộng) và dĩ nhiên cả phía Miên cộng (Khmer Đỏ).

Đấy là nguyên nhân đã khiến có cả hàng chục Sư đoàn Bộ đội CS Bắc việt và VC, tiếp tục có mặt bất hợp pháp trên đất Miên và Lào để chờ dịp quấy rối vùng “Tam biên” ngã ba biên giới, phía Tây cao-nguyên Trung phần và cả miền nam VNCH.

……

Ngày 9-4-70: Quân đội chính-phủ Cambốt rút toàn bộ khỏi Thị trấn Svayrieng (tiếng Việt gọi là Tỉnh Soài-riêng), khoảng cách gần 10 cây số phía bắc biên giới Tỉnh Kiến-tường (QK 4). Tỉnh Svayrieng còn nằm trên QL1, trục lộ giao thông huyết mạch trước đây trên toàn cõi Đông-dương, nối liền Sàigòn với Phnompenh. Vùng này còn được biết với cái tên là khu “Mỏ Vẹt” (Parrot’s Beak).

Tương tự như trường hợp đã xẩy ra tại Thị trấn Snoul, Tinh Svayrieng cũng bị chiếm hữu qua lại của lực lượng thuộc các phe quốc gia (Cambốt và VNCH) và cộng sản (Hànội và MTGP).

Trong thời gian này, thảm trạng “Cáp ruồng” (massacres) đã xẩy ra tại một vài nơi thuộc vùng Tỉnh Svayrieng; với mức thiệt hại được ghi nhận khoảng vài trăm nhân mạng người Khmer gốc Việt.

Dư luận quốc tế cho rằng đây là một trong những kế hoạch (?) của CS Bắc việt và VC nhằm gây sự hiềm khích, chia rẽ giữa hai dân tộc, khiến gây trở ngại các cuộc hành quân hỗ trợ song phương giữa hai chính phủ của Thủ tướng Lon-nol và Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, VNCH trên chiến trường ngoại biên.

Tại Hoa-kỳ, do áp lực của sinh-viên và dân chúng, nhất là phe phản chiến, một số những cuộc biểu tình bị xách động đã xẩy ra tại một số các trường Đại-học cũng như trên đường phố; Lên án chính-phủ Mỹ chủ trương “bành trướng” chiến tranh qua nước Cambốt ! Kết quả đưa đến việc Tổng thống Nixon phải xuất hiện trước Nghị viện Mỹ ngày 5-5-70, cam kết “Rút lui lực lượng Mỹ khỏi lãnh thổ Cambốt trong vòng từ 3 đến 7 tuần lễ”, đồng thời ra lệnh cho quân lính Mỹ (trong thời gian đó) không được tiến sâu quá 21 miles (tức 33.6 km) trong nội địa Cambốt .

Tuy nhiên ba ngày sau đó ở thủ-đô Sàigòn, tức 8-5-70, một buổi họp chính thức giữa Thủ-tướng Lon-nol của Kampuchia và Tổng-thống VNCH Nguyễn-văn-Thiệu, đã đưa đến sự thỏa thuận , trên nguyên tắc, giữa hai quốc-gia láng giềng (Cambốt và VNCH), về các cuộc “Hành quân ngoại biên”. Theo lời giải thích của TT Thiệu: “Quân lực VNCH không hề bị ràng buộc bởi sự giới hạn hành quân khoảng 33 km (tức 21 miles) trong nội địa Cam-bốt như lời cam kết của TT Nixon trước QH Hoa-kỳ”.

Sự thỏa thuận trên nguyên tắc, giữa Thủ-tướng Cambốt và Tổng thống VNCH, tuy được ghi nhận trong bản thông cáo chung của hai nước; Nhưng trên thực tế, qua sự nhận định của giới quan sát viên đặc biệt về quân sự, đã cho thấy có nhiều sự kiện bất lợi xuất hiện (?), gây ảnh hưởng trực tiếp cho cuộc hành quân ngoại biên của Quân Đoàn III và QĐ IV trong năm 70 và 71(!).

2. Chiến Dịch Toàn Thắng - 70:

Mặc dầu cộng quân, bị thất bại nặng nề trong cuộc ‘Tổng Tiến công và Tổng nổi dậy Tết Mậu-thân năm 68’; Vẫn ngoan cố bám víu cách tuyên truyền của Việt minh Cộng sản. Hồ-chí-Minh và Đảng cầm quyền Hà-nội tiếp tục ‘ngợi ca’ sự kiện Tết Mậu-thân như là một ‘chiến thắng vĩ đại’ của ‘Quân dân Anh hùng CS miền Bắc’. Mặt khác, chúng lại gián tiếp thú nhận sự thảm bại, khi nêu ra con số tử vong cao tới hơn 50% so với mức quân số, bao gồm cả lực lượng CS Bắc việt lẫn MTGP (VC).

Sự thất bại, không những vậy còn ảnh hưởng trầm trọng về mặt tinh thần; đặc biệt nhuệ khí chiến đấu của tập thể cán binh VC bị xút giảm. Lúc đó Bộ Chính-trị Đảng CS Bắc việt đã phải ‘kiểm thảo’ thẳng thắn là “thấp tới mức độ phải báo động”! Theo một vài tài liệu khác(?), liên quan đến hệ thống tổ-chức CS, đã xác nhận các ‘cơ sở’ nồng cốt hạ tầng, lẫn đặc công nội thành của Việt cộng gần như bị xóa sổ.

Sự kiện trên đây đã trả lời đầy đủ cho câu hỏi, tại sao sau biến cố Tết Mậu-Thân các đơn vị Cộng quân triệt để tránh né các cuộc đụng độ với lực lượng VNCH và quân đội đồng minh(?).

Về phía các nước đồng minh trên thế-giới tự-do, đang hỗ trợ miền nam VN chiến đấu tự vệ chống CS Bắc việt xâm lược; Đặc biệt từ sau năm 68, Hoa-kỳ vẫn tiếp tục giảm bớt quân số tại VN theo đúng kế hoạch đã ấn định; Đang từ con số nửa triệu lính Mỹ, căn cứ trên thống kê trong tháng 6, thì đến cuối năm 1969 đã có thêm 64,000 người được hồi hương. Phần chính phủ VNCH ngược lại, do nhu cầu đòi hỏi của chương trình “Việt Hoá” chiến tranh (Vietnamization) quân số đã tăng cường từ 850,000 lên hơn 1 triệu, để đáp ứng việc thay thế các lực lượng đồng minh trong tương lai. (1)

Các cuộc Hành quân xẩy ra sau này, chính thức được bắt đầu bằng cái tên Toàn Thắng - 42 và 43…v..v (vào năm 69/70) và Toàn Thắng 1/71; Những con số ghi kèm theo sau, để chỉ định cho từng đợt chiến dịch. Tuy nhiên trước đó quân lực VNCH cũng đã từng có những cuộc hành quân, truy kích bộ đội CS Bắc việt và VC ra khỏi vùng biên giới của các Tỉnh như: Bình-long, Tây-ninh, Kiến-tưòng, Kiến- phong v…v.. Lính Bộ đội Hà-nội và VC trú đóng dọc theo biên giới Việt Miên, thường lén lút sang tấn công vào một số đơn vị địa phương của VNCH, nhằm khuấy rối tình trạng an ninh trong khu vực, đồng thời cướp lương thực của cải dân chúng để mong sống còn; Sau mỗi sự kiện, chúng lại bí mật rút sâu vào đất Miên để tránh né những cuộc oanh tạc hoặc truy lùng của quân đội VNCH..

Tình trạng này kéo dài cho đến khi có sự thay đổi chính phủ Cambốt (chính phủ Lon-nol, thân Tây phương); Kể từ đó các cuộc “Hành quân vượt biên” của quân đội VNCH và lực lượng đồng minh mới được chính thức rõ rệt.

Người dân trong nước lúc đó, được đọc hoặc nghe các trận đánh qua sự tường thuật của báo chí hay các cơ quan truyền thông, nhưng vẫn còn bỡ ngỡ vì nhiều cái “tên” chưa được thấy nhắc đến bao giờ. Đó là những trường hợp các cuộc đụng độ không xẩy ra tại ngay trên các Thị trấn hay những nơi có mang sẵn địa danh, nên được đặt tên qua “địa hình”; Thí dụ: Căn cứ “C” (hay Charlie), Cứ điểm “B” (hay Beta), hay Đồi 101,.v..v. Hoặc có khi “tên” của một mặt trận được đặt do căn cứ vào hình dạng (đường, nét vẽ) của địa thế thiên nhiên, xuất hiện trong bản đồ hành quân. Mục đích quan trọng là giúp cho sự “nhận diện” được thống nhất trong đặc lệnh Truyền tin; Một hệ thống yểm trợ, liên lạc giữa Cố vấn QS Hoa-kỳ và quân lực VNCH.

Để dẫn chứng cho điều này, trên bản đồ hành quân của Vùng 3 Chiến thuật, ta có thể lấy điểm nhọn, tượng trưng cho biên giới Cambốt với các ranh Tỉnh Tây-ninh, Hậu-nghĩa (thuộc QK 3) và Tỉnh Kiến-tường (QK 4); Có hình vẽ giống như một mỏ chim, nên giới quân-sự đặt cho khu vực này một cái tên “Mỏ Vẹt” (Parrot’s Beak). Lên một chút nữa, nét vẽ ranh giới được phình rộng ra, nhìn giống hình hai chiếc cánh, nên được đặt tên là “Cánh Thiên Thần” (Angel wings). Xa chút nữa lên phía tây-bắc của Tỉnh Tây-ninh, đường biên giới trông giống hình đầu con chó nhìn nghiêng (?); Nên được đặt tên là khu “Đầu Chó” (Dog’s head). Phía bắc hai tỉnh Tây-ninh và Bình-long giáp ranh với Cambốt, trên bản đồ biên giới ta thấy có một đường cong khởi đầu từ một đỉnh nhọn, giống hình một cái lưỡi câu, nơi này được đặt tên là vùng “Lưỡi Câu” (Fish Hook).

* * *

Song song với ý định “đem chiến tranh ra khỏi lãnh thổ” của VNCH, Tổng Thông Nixon, đặt tin tưởng vào một chính phủ thân Mỹ của Thủ tướng Lon-nol tại Cambốt; Đã thông qua cùng BTL Cố vấn Quân sự Hoa-kỳ tại VN (MACV), tăng cường yểm trợ cho quân lực VNCH trong chiến dịch truy lùng địch, tấn công vào những cứ điểm trú đóng của bộ đội CS Bắc việt và MTGP (VC) hiện đang ẩn núp dọc theo vùng biên giới Miên-Việt.

Các cuộc hành quân ngoại biên đã được tổ chức giữa sự phối hợp của hai Quân Khu, do các vị đương kim Tư-lệnh giầu kinh nghiệm chiến trường và được sự tín nhiệm tuyệt đối của binh sĩ các câp, đó là Trung-tướng Đỗ-cao-Trí (QK 3) và Thiếu-tướng Nguyễn-viết-Thanh (QK 4).

Hai trong những lần xuất quân chính thức được ghi nhận như sau (1):

2.1 - Ngày 29-4-70: Một lực lượng gồm 6000 binh sĩ thuộc QL VNCH mở đầu cuộc hành quân vào khu vực Mỏ Vẹt (Parrot’s Beak) vùng biên giới, tiếp giáp với các tỉnh Tây-ninh, Hậu-nghĩa (QK 3) và Tỉnh Kiến-tường (QK 4). Cuộc hành quân được sự hỗ trợ của Không quân và Pháo binh Hoa-kỳ. Ngoài ra BTL MACV còn cố vấn cho chiến dịch về phương diện quân sư như Không quân chiến lược và chiến thuật, phụ trách tiếp vận và mọi phương tiện tản thương cần thiết.

2.2 - Hai ngày sau đó, tức 01-5-70, tiếp theo cánh quân thứ hai được đổ vào vùng biên giới thuộc khu vực Lưỡi Câu (Fish Hook) vào khoảng gần 20 cây số hướng tây-bắc Thị trấn An-lộc, thuộc Tỉnh Bình-long; gồm tập hợp lực lượng của khoảng 8,000 quân Mỹ cộng với 2000 binh sĩ VNCH. (Trong một tài liệu khác (2), lực lượng tham chiến của cánh quân này được biết với số lượng là: 5000 của VNCH và 15,000 phía quân đội Hoa-kỳ).

Đoạn dẫn chứng trên đây cho thấy cuộc hành quân lùng địch của lực lượng bạn, vào cuối Tháng 4 bước sang đầu Tháng 5-1970: Khởi sự bằng hai mũi dùi chủ yếu xuất phát từ Tỉnh Kiến-tường (QK 4) và Tây-ninh (QK 3), tấn công ngược lên hướng bắc, tiến xâu vào lãnh thổ Cambốt.

Sự kiện cho thấy là ngày và giờ xuất phát khác nhau tại hai địa điểm (a) Cánh quân từ biên giới tiến vào vùng Mỏ Vẹt: ngày N; Và (b) Cánh quân tiến vào khu Lưỡi Câu: Ngày N+2. (Sau cánh quân kia là hai ngày).

Theo tin tình báo (A2) giải đoán thì: cả hai khu vực này bị tình nghi là Bộ chỉ-huy của TƯC Miền nam (Cục R), còn như nếu không phải, thì ít ra cũng là những địa điểm quan trọng được mệnh danh là ‘An toàn khu’ như VC thường vẫn tuyên bố. Đây là những trại đóng quân còn gọi là “the City”(theo cách gọi của binh sĩ Mỹ), được thành lập để tiếp nhận số bộ đội, chiến cụ, nhiên liệu và lương thực v…v ; Được bí mật vận chuyển bằng đường bộ vào từ Hà-nội (do đường mòn HCM), hoặc theo đường biển, qua hình thức viện trợ, do các tầu Nga-sô chuyên chở (ghi nhận khoảng 80% trên tổng số tiếp tế cho chiến trường Cambốt), mà trước kia đã được Sihanouk (Chính phủ thân cộng) chấp thuận cho cập bến tại hải-cảng Sihanoukville.

3. Chiến Dịch Toàn Thắng -71:

Sau đây là đoạn “Hồi ký“ của một quân nhân thuộc Quân lực VNCH, trực tiếp tham dự vào cuộc hành quân ngoại biên, được coi là một nhân chứng sống trong cuộc chiến đấu hào hùng của quân lực VNCH:

….”Cuối năm 1970 BTL/QĐIII xử dụng ba Sư đoàn cơ hữu là 5,18,25 và 2 Liên đoàn 3 và 5 BĐQ thay phiên nhau mở cuộc hành quân sang lãnh thổ Kampuchia, (mục đích nhằm) phá tan hậu cần VC dọc theo biên giới: mật khu Ba Thu, Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu. Đồng thời đi sâu vào các tỉnh Svay Rieng, Kompong Trach, Prey Vieng, cứu đồng bào VN thoát khỏi cảnh nạn kiều, đưa trở về VN định cư. Gần Tết các đơn vị được rút về VN ăn Tết, đồng thời chuẩn bị cho cuộc hành quân quy mô Toàn Thắng 1/71 trên lãnh thổ Kampuchia”.

[Do quyết định của Trung tướng Đỗ-cao-Trí, Tư-lệnh QĐ III kiêm Tổng Tư-lệnh chiến dịch Toàn-Thắng, LLXK QĐ III được đặc biệt, thành lập vào Tháng 11, 1970; theo kế hoạch của Tướng Tư lệnh, để xử dụng cho thích hợp với chiến trường ngoại biên, ở một thế đất ít xình lầy và tương đối quang đãng trong nội địa Cambốt] (phần chữ ‘đứng’ được tác giả ghi chú thêm).

“Lực lượng xung kích Quân đoàn III được thành lập gồm 3 Chiến đoàn tinh nhuệ, tổ chức như sau:

1. Chiến đoàn 3 gồm có: Lữ đoàn 3 Kỵ binh (- 2 Thiết đoàn) + 1 Tiểu đoàn của Liên đoàn 3 BĐQ + 1 Tiểu đoàn của Liên đoàn 5 BĐQ + 1 Pháo đội của Tiểu đoàn 46 Pháo binh.

2. Chiến đoàn 333 gồm có: Liên đoàn 3 BĐQ (- 1 Tiểu đoàn) + 1 Thiết đoàn Kỵ binh + 1 Pháo đội của Tiểu đoàn 46 Pháo binh.

3. Chiến đoàn 5 gồm có: Liên đoàn 5 BĐQ (- 1 Tiểu đoàn) + 1 Thiết đoàn Kỵ binh + 1 Pháo đội của Tiểu đoàn 46 Pháo binh.

Sáng mồng 4 Tết (nhằm ngày Thứ Năm, 31-12-70 Dương lịch), các lực lượng này đã ào ạt xuất phát tiến quân theo trục lộ Thiện Ngôn, Xa Mát, vượt biên giới Kampuchia, sang ngã ba Krek, cặp theo quốc lộ 7, trực chỉ Kompong Cham. Mục tiêu là đồn điền Chup, theo tin tình báo nơi đây là bản doanh của Trung ương cục Miền Nam, tức là cục R. Ba Sư đoàn Bộ binh 5, 18 và 25 thay phiên nhau giữ đường về từ Thiện Ngôn sang đến ngã ba Krek, dọc theo quốc lộ. Khi lực lượng của ta tiến đến thành phố Suong, một quận lỵ trù phú của tỉnh Kompong Cham thì chạm súng ác liệt với VC.” …..(2)

Cuộc tiến quân như vũ bão của quân lực VNCH, bắt đầu với Lực Lượng Xung Kích QĐ III, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đại-tá Trần-quang-Khôi; nhờ thế không mấy chốc đã vượt qua hàng chục cây số, tiến sâu trong nội địa Cambốt.
Các cánh quân bạn, gồm những Chiến đoàn Đặc nhiệm của VNCH, cộng thêm sự yểm trợ hữu hiệu của Không quân VN và phía đồng minh Hoa-kỳ, Thoạt tiên cũng đã gặp phải sự chống cự mãnh liệt của phía bộ đội CS Bắc việt và VC cùng nhóm Khmer Đỏ. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, trước hỏa lực hùng hậu của Thiết giáp và lực lượng Bộ binh tùng thiết (LLXK QĐ III) cộng quân đã phải tháo chạy, bỏ lại phía sau toàn thể doanh trại của cơ sở tiếp tế hậu cần.

Trong suốt Chiến dịch Toàn Thắng, đặc biệt khởi đầu từ cuối Tháng Tư năm 70 kéo dài sang tận đầu năm 1971; phía Chính quyền VNCH và toàn dân miền nam hầu như đã cùng nhau sát cánh, tin tưởng vào một kết quả tất yếu của cuộc Hành quân Ngoại biên, giúp thanh toán nhanh chóng các lực lượng CS Bắc việt và VC; lúc đó đang lén lút xử dụng đất Miên như một “Bàn đạp” nhắm đẩy mạnh chiến tranh vào miền nam. Một miền đất nước tự do thanh bình, nhất quyết không chấp nhận chế độ cộng sản độc tài, phi nhân!

Trên đà thắng lợi của VNCH và lực lượng Đồng minh, kể từ sau khi biến cố Tết Mậu-thân 68 chấm dứt; Theo Tướng Đỗ-cao-Trí, kế hoạch điều quân rượt theo tàn quân VC qua vùng biên giới Miên là điều phải thực hiện. Tư lệnh QĐ III, tuyên bố tiếp, đại ý: Với chủ trương “đem chiến tranh ra khỏi vùng lãnh thổ”, nên ông đã cho xuất phát cuộc hành quân quyết định đễ thanh toán T. Ư. Cục Miền Nam, đồng thời nhằm bẻ gẫy các mưu toan xâm chiếm QK 3 và QK 4 bằng các đơn vị chủ lực của CS Bắc việt”...

Trong thời gian này, về phương diện quân sự, miền nam VNCH gặp nhiều thuận lợi từ lúc khởi đầu của các trận giao tranh xẩy ra tại vùng ngoại biên, như vừa trình bầy. Nói chung, tình hình an-ninh nội địa tương đối khá hơn kể từ lúc cộng quân bị rượt chạy ra khỏi địa bàn hoạt động của chúng. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân nhận lãnh trách nhiệm hành quân an dân, bảo vệ lãnh thổ thay thế các lực lượng Bộ binh; Giúp các đơn vị chủ lực này rộng đường đối phó với địch quân ở vùng biên giới.

* KẾT QUẢ CUỘC HÀNH QUÂN – CON SỐ TẠM THỜI *

Cuộc Hành quân Ngoại biên sự do phối hợp giữa quân lực VNCH, với quân số gồm 48,000 người và lực lượng Đồng minh Hoa-kỳ 32,000 binh sĩ; kéo dài trong khoảng thời gian gần hai năm (69-71). Các chiến dịch trước sau đã tổ chức được cả thẩy 10 cuộc hành quân “Lùng và giệt địch”. Kết quả phát hiện được ít nhất khoảng một tá những căn cứ (trại đóng quân) của CS Bắc việt và VC.

Mặc dù giữ vai trò tham chiến và yểm trợ, quân đội Mỹ đã bị chi phối trực tiếp bởi “giới hạn 21 Miles” (khoảng 33 Km, trong nội địa Cambốt), theo lời công bố của chính-phủ Hoa-Kỳ ! Sự giới hạn hoạt động hành quân, được kể cả Bộ binh lẫn Không lực, về phía quân đội Mỹ, đã không những làm trở ngại cho sự phối hợp điều quân mà còn hủy hoại cả mục đích của cuộc hành quân “lùng và diệt địch”, đã hoạch định ngay từ lúc khởi đầu.

Tại Hoa Thịnh Đốn, trong một bản tường trình (3) trước quốc dân vào Ngày 30 Tháng 6, Tổng Thống Nixon công bố Kết quả của cuộc Hành quân Ngoại biên như sau:

“…Kết quả tạm thời được xác nhận từ ngoài mặt trận.

Đây là những con số tổng kết các chiến lợi phẩm do lực lượng hành quân bạn đã tịch thu được (hay hoặc phá hủy) của địch quân:

-- 22,892 Vũ khí Cá nhân. = Đủ trang bị cho 74 Tiểu đoàn chính quy CS Bắc việt.

-- 2,509 Vũ khí Cộng đồng, loại lớn. = Đủ trang bị cho 25 Tiểu đoàn chính quy CS Bắc việt.

-- Hơn 15 triệu viên đạn. = Bằng tổng số đạn Cộng quân đã bắn trong năm vừa qua.

-- 14 triệu Pounds gạo (khoảng 7 triệu Kg) = Đủ nuôi tổng số lính của VC trong vòng 4 tháng tại miền Nam.

-- 143,000 Đạn hỏa tiễn, súng cối và súng không giật (recoilless rifle rounds) cộng quân dùng pháo kích vào các căn cứ quân sự và thành phố của VNCH. Tương đương với số lượng đạn VC đã dùng trong vòng 14 tháng, vào mục đích phá hoại tại miền nam VNCH.

-- Hơn 199,552 Đạn phòng không, 5,482 trái Mìn, 62,022 trái lựu đạn và khoảng 40,000 Kg chất nổ cộng them 1,002 Gói thuốc bồi.

-- Hơn 435 chiếc xe đạp.

-- Phá hủy hơn 11,688 hầm trú ẩn và các thiết trí quân sự của CS Bắc việt và VC.

Về phương diện quân số, ước tính gồm cả CS Bắc việt và VC, được ghi nhận như sau: 11,349 cộng quân thiệt mạng và 2,328 bị bắt giữ làm tù binh….

………

4. Vấn Đề Tù Binh:

Như mọi người đều biết, kể từ sau Thế-chiến thứ I và thứ II, “Tù Binh” (và chiến Tranh) đã là đề tài thường được viết hoặc nhắc nhở tới rất nhiều trong các tác phẩm thuộc về sử liệu cũng như hồi ký hoặc tiểu thuyết.

“Tù Binh” được đặc biệt quan tâm, do vì yếu tố nhân đạo. Đó là thành phần quân lính của đôi bên bị bắt và bị giam giữ trong khi tham chiến.

Tuy số phận của những tù binh này được bảo vệ theo những điều khoản đã ấn định trong các văn bản quốc-tế, nhưng trên thực tế cho tới nay, vấn đề đối xử với tù binh nhiều khi không được nghiêm túc tôn trọng theo như trong qui ước.

Hơn nữa, một khi có cuộc giao tranh xẩy ra, phe đặt nặng vào vấn đề “nhân đạo” lại thường bị sự kiện Tù Binh chi phối; Kết quả là phe đó thường gặp phải vô số những thất lợi kể cả ngoài chiến trường lẫn trong bàn hội nghị.

Tương tự, điều bất lợi này đã khiến VNCH và đồng minh Hoa-kỳ phải “bó tay”; thông qua cái bản dự thảo chứa chất vô số “cạm bẫy” của Hiệp-định Ba-lê năm 73. Sự ép buộc phe đồng minh “nhắm mắt ký ” vào bản Hiệp-ước Hòa-bình để Hoa-kỳ được nhẹ nhàng rút ra khỏi cuộc chiến; Dẫn đến cái kết quả hiển nhiên là miền nam VNCH, đã bị phe CS Bắc việt thôn tính chỉ trong vòng hai năm sau ngày Hiệp-định Ba-lê được các nước tham dự ký kết!

Giới bình luận quân-sự cho rằng yếu tố “Tù-Binh” đóng một vai trò quan trọng, góp phần tạo sự khủng hoảng nội tình chính-trị ở Hoa-kỳ. Đấy cũng là nguyên nhân chính, khiến chính-phủ Mỹ đã phản bội phe đồng minh của họ một cách trắng trợn.

Đối với những nước Cộng sản, dựa trên “chủ nghĩa Tam Vô”, phi nhân bản; Tất nhiên “lòng nhân đạo” không hề được thừa nhận trong cái chế độ độc tài, đảng trị và tuyệt đối ‘vô nhân tính’ này!

Trong chủ trương “đấu tranh Giai cấp”, được kể là những cuộc ‘Chém giết nội bộ‘, thanh trừng đẫm máu trong mọi tầng lớp dân chúng. Với chính sách đó, tập đoàn Đảng cầm quyền trong các nước độc tài CS đã coi thường tính mạng con người như thế nào!. Cho nên với chủ nghĩa CS, tính mạng những người “tù binh” của họ (lính CS), càng không được coi là ngoại lệ; Con người bị coi là những hạt bụi, hạt cát không hơn không kém. Đảng nhà nước CS, sẵn theo đường lối phi nhân, dã man, đã xử dụng xương máu người dân như những vật liệu xây cất, được dùng để đắp nên con đường thật vững chắc giúp cho ‘Chủ nghĩa Cộng sản’ tiến nhanh, tiến mạnh theo học thuyết Mác-xít và Lênin-ít (!)

Trái lại do vì lòng nhân đạo, các nước đồng minh, đặc biệt riêng Hoa-kỳ, muốn bảo vệ tính mạng binh sĩ của mình ngay cả khi bị bắt và bị cầm tù. Dư luận, dựa trên một khía cạnh nào đó, đã đưa ra một nhận định: “Dường như Mỹ chưa đánh đã phải lo nhượng bộ về vấn đề tù binh”(!); Cho nên mỗi khi phía CS đánh tiếng cho một cuộc nói chuyện sơ khởi, là y như rằng bên phía Hoa-kỳ thường bị đặt trong thế thụ động, vì do lời “yêu cầu trao đổi tù-binh” (như một điều tiên quyết) của phe đại diện Mỹ. Kết quả phía Hoa-kỳ bị đối phương dồn vào thế “hạ phong” đành buộc phải nhượng bộ; Không những vậy mà Mỹ còn bị mang tiếng là một loại “Cọp giấy”!

* * *

Nhà cầm quyền CS Hà-nội vẫn quyết tâm xâm lấn VNCH, nên chiến tranh đã kể như được leo thang trên cả hai miền nam bắc ngay từ sau cuộc ‘Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu-thân’, năm 1968. Sự kiện này chỉ được kể là một trong rất nhiều lần, chứng tỏ Hồ-chí-Minh và Đảng CS Bắc việt đã lại “Vi phạm lệnh ngừng bắn” trong những ngày Tết; Ra lệnh cho ‘bộ đội bác hồ’ và VC tấn công, phá hoại xâm chiếm một số các Đô, Tỉnh và Thị xã tại miền nam VNCH, trong những ngày hưu chiến hàng năm áp dụng cho đôi bên.

Dựa trên kết quả, cộng quân đã coi như thảm bại trên mức độ tổn thất nặng nề về quân số, vũ khí; Cộng thêm nhuệ khí chiến đấu của cán binh bộ đội bị giảm sút tối đa. Ngược lại ‘Quân đội Nhân dân Anh hùng’ của CS Bắc việt đã hoàn thành công tác ‘tốt’: chém giết “tập thể”, chôn sống đồng bào “tập thể” mà địa điểm tiêu biểu được dẫn chứng là Huế, Tỉnh Thừa-thiên trong dịp Tết Mậu-thân năm 68!

Sau khi lực lượng cộng quân thua, rút khỏi kinh thành Huế, tổng cộng số thường dân bị VC giết được liệt kê đã lên tới hàng chục ngàn sinh mạng: Hết thẩy đều là những người dân vô tội, bị VC giết thảm vào giữa lhời gian hưu chiến, trong dịp Lễ Tết cổ truyền của dân tộc.

-- Tiếp theo “Vụ thảm sát Tết Mậu-thân 68”, do kế hoạch của tập đoàn CS Hà-nội và trước khi các cuộc hành quân ngoại biên được xuất phát từ Quân-Khu 3 và QK 4; Một sự kiện đặc biệt đã xẩy ra vào giữa năm 1969, gây nên ảnh hưởng rất quan trọng trên phương diện chính trị cho “cuộc chiến tranh tự vệ” của VNCH:

Tổng Thống Nixon có một người em trai (không tiết lộ tên), mang cấp bậc Thiếu-Tá thuộc Binh chủng Không quân Hoa-kỳ. Trong một phi vụ oanh tạc miền bắc VN, máy bay bị bắn rớt, phi công nhảy dù thoát nạn nhưng kết quả là bị bắt làm tù binh.

Người vợ của Th/Tá phi công, tức em dâu TT Nixon, sau đó tự động đề nghị với nhà cầm quyền Hà-nội: Bà đồng ý trả 50 triệu Đô la Mỹ, nếu CS Bắc việt chịu thả chồng bà (3).

Hà-nội từ chối lời yêu cầu này. nhưng chấp nhận cho ngưòi em dâu của TT Hoa-kỳ được đến VN thăm chồng (vào thời bấy giờ được CS Hà-nội gán cho viên Th/Tá Phi công này một cái tên là bọn ‘giặc lái’ Mỹ)

Một tuần lễ sau, nhà cầm quyền CS Hà-nội mới trả lời bà vợ của viên Th/Tá Phi công tù binh, qua một văn bản “phản đề nghị” (counter proposal) của bà trước đó. Đại ý tóm tắt là sau chuyến thăm chồng trở về, bà (em dâu TT Nixon) phải cam đoan “quậy”, “gây rối” hiện tình chính trị tại hoa kỳ: Khích động lưỡng viện Quốc-hội tạo áp lực khiến TT Nixon phải chấp nhận ngưng chiến tại VN; Để những người thân (lính Mỹ đang tham chiến) đuợc dịp trở về xum họp với gia-đình! Nếu bà chịu chấp nhận và hứa làm được điều này, thì CS Hà-nội sẽ “Bảo đảm mạng sống của chồng bà, ông ta sẽ được thả, để được trở về bình yên”. Bà vợ, tức em dâu TT Nixon, lẽ tự nhiên đã chấp nhận lời ‘phản đề nghị’ này của CS Hà-nội để chồng bà được thoát cảnh tù tội.

Sau chuyến đi Hà-nội thăm chồng (Th/Tá Phi công tù binh), (1-8-69) kết quả khi trở về Mỹ, người em dâu của TT Nixon bắt đầu hợp tác với thành phần phản chiến tại cùng các nghị viên Đảng đối lập trong Quốc-hội Hoa-kỳ, sách động những cuộc mít tinh biểu tình. Nhiều Tiểu bang được ghi nhận có nhiều cuộc biểu tình với số người tham dự rất đông, có nơi đã kéo dài tới vài ngày liên tiếp. Hiện tượng chưa từng thấy xẩy ra tại Mỹ bao giờ.

5. Kế Hoạch Giải Cứu tù Binh:

Khi đề cập đến kế hoạch giải cứu tù binh, một số những chi tiết về “Tù binh” sau đây cần được nêu ra (4):

-- Sự kiện được ghi nhận từ năm 1965:

Một quân nhân Mỹ tên Isaac Camacho, bị bắt giam làm tù binh. Sau khoảng 20 tháng anh đã trốn thoát về từ nội địa Cambốt. Isaac tiết lộ đã được gặp một thẩm vấn viên người Cuba. Sau những lần điều tra, thẩm vấn tương tự, cấp chỉ huy yêu cầu tù binh không được tiết lộ về sự hiện diện của người Cuba.

Cũng do tiết lộ của Isaac, cơ quan tình báo Mỹ còn ghi nhận được thêm các nguồn tin chứng minh có cả sự hiện diện của các cố-vấn quân sự Nga-sô trong hệ thống Trung ương Cục miền nam (COSVN).

-- Một cuộc trao đổi tù binh, thời gian khoảng năm 69 (?), được thực hiện qua lần thương thuyết giữa Sư Đoàn I Kỵ Binh Hoa-kỳ và ‘Mặt trận Giải Phóng’ (NLF/PRG) tại khu biên giới Cambốt (phía Tây) của Tỉnh Tây-ninh. Kết quả có 3 quân nhân, tù binh Mỹ được trao trả.

-- Cuối năm 70, một số những cuộc đột kích nhằm giải thoát tù binh cũng được thực hiện song song với chiến dịch hành quân ngoại biên. Tuy nhiên những địa điểm này (những trại đóng quân của VC) đã bị bỏ trống, chỉ trong một thời gian ngắn (?) trước khi xẩy ra cuộc đột kích.

Một vài cuộc hành quân đã ghi nhận, giải thoát được một số tù binh VNCH và một số lính VC bị bắt giữ. Tuy nhiên các doanh trại này còn để lại gần nguyên một kho tiếp liệu gồm thực phẩm như gạo, muối, khoai, bắp…một số quân phục bộ đội, nón, dép và nhiên liệu, với một số lượng dầu nhớt...v..v..Có trại còn để lại cả chuồng nuôi gia súc như gà, heo… Các địa điểm nêu trên còn được lực lượng Hoa-kỳ đặt tên là “Thành phố” (The City)

Trong những năm gần cuối của cuộc chiến tranh Việt-nam, dư luận chỉ được biết đến độc nhất có cuộc “đột kích cướp tù binh Sơn-tây”, đặc biệt nhằm giải cứu tù binh Mỹ, xẩy ra ngày 21-11-1970. Lực lượng đổ bộ tuy đã hoàn tất kế hoạch theo dự định, nhưng kết quả đã không mang được một người tù binh nào từ đất địch trở về.

Sự thất bại, sau khi được nghiên cứu và đã giải đoán, thứ nhất: vì một nguyên do nào đó, bí mật quân sự đã bị tiết lộ cho phía địch (?) Sự nghi ngờ còn được đặt ngay cả trên phần thượng tầng cơ sở (?); Do đó nhà cầm quyền CS Hà-nội kịp thời di chuyển toàn bộ trại tù qua một khu vực khác trên đất Bắc. Nguồn tin “tiết lộ” này có thể chỉ xẩy ra khoảng vài giờ đồng hồ, hay vài ngày trước cuộc đột kích (?).

Điều nghi ngờ thứ hai, cũng rất quan trọng là trong hệ thống chỉ huy quân sự (vô tuyến, điện thoại) lẫn cơ quan tình báo (gián điệp, phản gián) đã vi phạm công tác bảo mật tối cần thiết, nhất là ở vào thời kỳ chiến tranh (?).

Dư luận dường như chỉ biết đến cuộc đột kích Sơn-tây mà ít được biết đến một sự kiện đáng chú ý khác, đó là Trung tướng Đỗ-cao-Trí, Tư lệnh QĐ III và QK 3 kiêm TL Chiến trường Ngoại biên năm 70/71; được sự yểm trợ của lực lượng Không kỵ Hoa-kỳ, đã đích thân chỉ huy một cuộc đột kích nhắm giải thoát tù binh trong nội địa lãnh thổ Cambốt. Rút kinh nghiệm từ vụ đột kích Sơn-tây, cuộc hành quân này đã được thảo luận và giữ bí mật riêng trong giới chỉ-huy cao cấp Việt-Mỹ.

Ngày 17-01-71, Trung tướng Trí đột ngột xử dụng trực thăng vận (có trực thăng võ trang yểm trợ), tung khoảng 1 Tiểu đoàn Nhẩy Dù (300) đột kích vào một trại đóng quân của địch, thuộc phía Tây của Thị trấn Memot (vào khoảng chưa tới 10 cs, từ biên giới phía Bắc Tỉnh Bình-long). Nơi đây cũng được tình nghi là BCH của T.Ư.Cục Miền nam của cộng quân. Cuộc đổ quân và lục soát diễn ra trong vòng 3 giờ đồng hồ gồm có cả vấn Hoa-kỳ tham dự; tuy nhiên không phát hiện được một tù binh nào của quân bạn. Khu trại bị bỏ trống hoàn toàn! Kết quả sau đó chỉ phát hiện và bắt giữ khoảng 30 tên VC làm tù binh.

Vấn đề “không thành công” nêu trên, lại một lần nữa được biểu lộ qua sự nhận định của một cấp chỉ-huy thuộc Lực lượng Không Kỵ Hoa-kỳ: “Phe địch luôn luôn bắt được tin tức của ta trước và đã hành động trước ta một bước” (?) Kịp thời tránh né, di chuyển để bảo vệ nhũng tù binh bị chúng bắt giữ, đặc biệt là tù binh Mỹ; Những “sinh mạng” sẽ giúp cho phe CS Bắc việt tích cực lợi dụng đặt vào “bàn cân” để nắm được nhiều lợi thế trong các cuộc điều đình, thương thuyết suốt thời gian Hội-nghị Hòa đàm diễn tiến tại Ba-lê.

6. Phần "Tạm" Kết:

Kế hoạch “Đưa Chiến Tranh Ra Khỏi Nội Địa” là do đích thân Trung Tướng Đỗ-cao-Trí, Tư lệnh QĐ III và QK 3, cùng với Bộ Tham Mưu của ông đã nghiên cứu, hoạch định và thực hiện trong thời kỳ (69-71).

Theo Tướng Trí, mục đích chính là không cần đánh những “quân trộm cắp” ở ngay trong nhà mình; thay vì kéo bọn “Gian tặc Cộng phỉ” ra ngoài ngã ba đường hay qua đất hàng xóm (do sự ưng thuận của láng giềng) để thanh toán chúng ngay từ những ‘lỗ chó’, chỗ được chúng lén lút dùng để chui qua phá làng, phá xóm, cướp của đồng bào.

Kế hoạch này nếu được thực hiên, kết quả sẽ đem lại sự bình yên cho từng địa phương tại miền nam. Sẽ giúp dân chúng, đặc biệt tại nông thôn, từng gắn bó với ruộng đồng, nhà cửa và làng mạc, tránh được khỏi cảnh tàn phá vì chiến tranh; Mà nguyên nhân gây ra bởi các cuộc pháo kích, giật mìn, tấn công, nhắm mắt giết bừa bãi dân lành của bộ đội CS Bắc việt và VC.

Tuy nhiên cuộc Hành quân Lùng địch trên đất Miên, nói chung là các hoạt động phối hợp giữa Quân lực VNCH và đồng minh Hoa-kỳ; lại đã không may gặp phải những trở ngại về chính-trị, xẩy ra trùng hợp với những diễn tiến trên Chiến trường Ngoại biên lúc đó. Tưởng cũng cần phải kể thêm một trong những nguyên nhân gây nên sự phẫn nộ của dư luận trong và ngoài nước đã khiến cộng quân không bỏ lỡ cơ hội, tận dụng cho đường lối phản tuyên truyền của chúng. Đó là vụ quân đội Mỹ tàn sát dân trong một thôn xóm, xẩy ra tại Mỹ-lai vào giữa năm 69 ở VN. Kết quả sau đó một số sĩ quan Mỹ chịu trách nhiệm trực tiếp đã bị truy tố và được xét xử trước Tòa án Quân sự Hoa-kỳ.

Trong phần Tạm kết, một số sự kiện tiêu biểu cho những “Hệ lụy về Chính trị” được nêu ra sau đây; Tất nhiên hết thẩy cần phải được tham khảo lại cẩn thận, trước khi đưa ra những kết luận thỏa đáng cho mỗi sự kiện.

-- Một số những phi vụ của B-52 không đáp ứng đúng lời yêu cầu của đơn vị hành quân? Nếu có, thì lại không đánh trúng vào mục tiêu ?

-- Hỏa lực không trợ dường như tránh né những địa điểm mà giới chỉ huy cao cấp Hoa-kỳ tình nghi có giam giữ tù binh (đặc biệt là tù binh Mỹ) ?

-- Giới hạn hoạt động của lực lượng Mỹ trong vòng 33 Km của TT Nixon đã đi ngược mục đích của cuộc hành quân “lùng và giệt địch”, được phác họa ngay từ ban đầu.

-- Một trong rất nhiều điều khó hiểu là tại sao khi phát hiện được BCH của T. Ư. Cục miền Nam ẩn núp tại khu vực Fish Hook mà hỏa lực của không quân chiến lược (B-52) cũng như các oanh tạc cơ tại sao không được xử dụng?

Một bằng chứng thứ hai, nguồn tin từ chính phủ Phnompenh, Ngày 24-4-70 sau khi phát hiện được BCH của cộng quân đang có mặt tại đồn điền Mimot (khoảng 10 Km từ biên giới Tỉnh tây-ninh, phía bắc Katum) đã báo cáo và yêu cầu cho oanh kích. Giới chức cố vấn QS Hoa-kỳ, kịp đến ngày 25-4, mới cho biết là không hề nhận được một điện văn yêu cầu nào như thế.

-- Giới lãnh đạo Hoa-kỳ không những bị dồn vào tình trạng bế tắc do những cuộc biểu tình phản đối của dân chúng trong nước; Đồng thời còn phải chùn bước trước lời đe dọa gián tiếp của Trung cộng. Sau một cuộc họp tại Bắc-kinh, khi trở lại bàn hội-nghị tại Balê, Trưởng đoàn Đại diện CS Bắc việt là Xuân-Thủy đem chuyển lời cảnh cáo của TC cho phía Hoa-kỳ, đại ý Trung cộng sẽ không tiếp tục chịu khoanh tay trong lúc người bạn ‘láng giềng hữu nghị’ bị Mỹ tiếp tục tấn công! //


PHẦN GHI CHÚ:
(1) The Vietnam war. An Almanac (World Almanac Publications)
(2) Truy lùng Trung Ương Cục Miền Nam Trên Lãnh Thổ Kampuchia, Tác-giả Hoàng Sa Nguyễn văn Nam.
(3) Vietnam Voices, Perspectives On The War Years, 1941-1982; Complied by John Clark Pratt.
(4) Cambodia Incursions & U.S. POWs - Parts I and II, http://northwestvets.com/spurs/cambodia.htm, L/L Không Kỵ Hoa-kỳ tại VN.

Nguyễn-ngọc-Tùng
Tháng Giêng 2011

@ Trúc-Lâm Yên-Tử

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site