lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Trang Thơ Kita Kha

...

Trang Thơ Văn Mặc Khách

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Nhơn

...

Trang Thơ Văn Thanh Sơn

...

Trang Thơ Văn Vĩnh Nhất Tâm

...

Trang Thơ Văn Phạm Ngọc Thái

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Thị Thanh

...

Văn Hóa Tộc Việt

...

Ủng Hộ Trúc Lâm Yên Tử - Donate

...

 

Trang Thời Sự Quốc Tế

Con Sán Lãi

1, 2

Chu Chi Nam

Bài đọc suy gẫm: Con Sán Lải -  Dựa vào lịch sử, tác giả Chu Chi Nam đã đưa ra nhận định, phân tách sâu sắc về những lúng túng và ứng xử vụng về của đảng cộng sản Trung Quốc từ xưa tới nay nơi mặt ý thức hệ. Ghi chú:  Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa

con sán lải

VÌ KHÔNG DỰA TRÊN MỘT NỀN TẢNG TRIẾT LÝ VỮNG CHẮC, CHÍNH QUYỀN TRUNG CỘNG KHÔNG THỂ CÓ MỘT ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ, NGOẠI GIAO HỢP LÝ, HỢP THỜI VÀ ĐÁNG TIN CẬY

Một nhà tư tưởng đã nói : «  Tất cả đến từ triết lý. » Câu này đúng không những đúng cho mỗi cá nhân con người, mà đúng cho cả chính quyền của một quốc gia dân tộc.

Thật vậy, một người có một triết lý sống vững chắc, thì lúc đó họ mới có thể suy nghĩ, hướng dẫn hành động của mình phù hợp với triết lý sống đó. Họ mới trở thành hợp lý với chính mình, hợp lý với những người chung quanh và mới có thể gây được niềm tin : Niềm tin tự chính bản thân và niềm tin đến từ người chung quanh.

Đối với chính quyền của một quốc gia, dân tộc, nếu không có một triết sáng tỏ, rõ ràng, vững chắc, thì họ không thể hành động hợp lý, minh bạch rõ ràng, tất nhiên không thể gây được niềm tin cho chính dân họ, mà còn không gây được niềm tin với những nước, dân tộc khác.

Chính vì vậy mà có một nhà nghiên cứu về chính trị ngoại giao của Á châu, đặc biệt là của Trung cộng có viết :

«  Chừng nào chính quyền Trung cộng không dựa trên một nền tảng triết học vững vàng, hợp lý, sáng tỏ, thì đường lối chính trị, ngoại giao của Trung cộng không hợp thời và đáng tin cậy. « 

Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề trên.

 Triết lý, triết học là gì

Triết học là môn học nghiên cứu về vũ trụ và đời sống của vạn vật.

Triết lý là lý luận sâu xa, tất yếu phải có của mọi sự vật, mọi nguyên tắc, mọi lý do trên đời.

Theo Tây phương, chữ  « philosophie « gồm 2 chữ: “ philo “ là yêu thích « ; «  sophie « là sự khéo léo, khôn ngoan, biết cách sống, cách cư xử ( la sagesse) ; còn có nghĩa là sự hiểu biết ( le savoir ).

Nhà triết học ( le philosophe) là người có sự khôn ngoan, khéo léo, hiểu biết, có cái nhìn cao thượng và khóang đạt ( de hauteur de l’âme et de détachement ) ; là người thích suy nghĩ, luôn đặt những câu hỏi về con người, về vũ trụ và về cuộc sống.

Không cần đi sâu vào sách vở, những ai, vào tuổi đời đã quá nửa đời người, chúng ta hãy suy ngẫm bản thân chúng ta, xét người, xét việc chung quanh, theo như Khổng Tử nói : «  Tận kỳ tâm, tri kỳ tính, ắt tri thiên «  ( Suy nghĩ cái tâm của chính mình, thì sẽ biết tính mình và tất biết việc trời đất ), chúng nhận thấy rằng : những ai có một triết lý sống vững vàng, sáng tỏ, thì họ biết rõ họ muốn cái gì, làm cái gì, và điều họ muốn, họ làm có đúng hay không. Từ đó họ ung dung tự tại, tự tin, không mâu thuẫn với chính mình, hành xử khéo léo, hợp tình, hợp lý, gây được niềm tin đối với người.

Trái lại, người nào không có một triết lý sống vững vàng, nay thế này, mai thế khác, không biết rõ mình muốn gì, làm cái gì, đầy mâu thuẫn, không tự tin với chính mình, tất nhiên từ đó, không thể gây niềm tin với người.

Điều này không những đúng với cá nhân mà còn đúng với cả một chính quyền.

Một chính quyền hành động mà không dựa trên một nền tảng triết lý rõ ràng, không biết mình muốn cái gì, hành động cái gì, và điều mình muốn, mình hành động có đúng hay không, từ đó đi đến chỗ không gây được niềm tin trong dân, tất nhiên không thể có sự hỗ trợ của dân, và tất nhiên không thể nào có được một đường lối ngoại giao được sự tín nhiệm của những nước khác.

Từ điểm này, chúng ta xét chính quyền Trung cộng, hay nói đúng hơn Đảng Cộng sản, từ ngày thành lập cho tới ngày hôm nay.  

Từ những sản phẩm độc hại bị tẩy chay cho đến thay đổi nhãn hiệu sang "Made in RPC" (Made in People's  Republic of China)

boycott made in china

1 ) Từ năm 1921 tới năm 1949

Đảng Cộng sản Tàu được thành lập năm 1921, tại Thượng Hải. Hai người quan trọng, mặc dầu buổi họp thành lập ban đầu vắng mặt, nhưng được mọi người tôn lên làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch là Trần độc Tú ( Chen Duxiu) và Lý đại Siêu ( Li Daizhao).

Trần độc Tú ( 1879 – 1942) : Người theo Tây học, Pháp học thì đúng hơn ngay từ lúc đầu. Con một vi đại quan quân sự vùng Mãn châu. Sau khi bố chết thì được ông nội nuôi nấng. Sau đó tới Hàng châu học nghề đóng tàu và dạy tiếng Pháp. Ông hoạt động chính trị cách mạng từ thời thanh niên. Sau phải trốn sang Nhật ( từ năm 1900 tới 1902), tại đây ông có học trường Sư phạm và đại hoc Wesada. Trở về nước năm 1903, ông dạy học ở một trường cao đẳng ở tỉnh An Huy. Từ năm 1907 tới 1910, người ta mất dấu tín về ông. Có giả thuyết cho rằng ông sang Pháp học đóng tàu. Ông không theo Tôn dật Tiên, vì ông chỉ trích chính sách bài người Mãn châu của ông này. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911, ông đặc trách về giáo dục của tỉnh An Huy. Năm 1915, ông thành lập tờ báo Thanh Niên, có ảnh hưởng rất mạnh trong giới trí thức và sinh viên học sinh lúc bấy giờ. Tờ báo này có phụ đề bằng tiếng Pháp ( La Jeunesse), điều này chứng tỏ ông hoàn toàn theo tư tưởng Tây phương, chống lại tư tưởng của Khổng, theo như nội dung tờ báo, và có Pháp học.

Ông đóng một vai trò quan trọng trong Phong trào Sinh viên, học sinh biểu tình vào ngày 4/5/1919. Hai năm sau, Đảng cộng sản được thành lập (1921), ông được bầu làm chủ tịch.

Sau cuộc nổi dậy của cộng sản ở Thượng Hải bị thất bại vào năm 1927 bởi sự đàn áp của Tưởng giới Thạnh. Ông bị chỉ trích trong đảng và mất chức Chủ tịch, ít lâu sau bị trục xuất ra khỏi Đảng, sau đó ông theo Đệ Tứ quốc tế Cộng sản của Trotski, bị Tưởng bắt và chết năm 1942.

Lý đại Siêu (Li Daizhao), cũng là người theo Tây học. Sau đó ông nghiên cứu về chủ nghĩa Marx. Ông làm quản thủ thư viện Đại học Bắc kinh, là cha vợ (đầu ) của Mao và đã đưa Mao vào làm việc chung với mình.

Câu nói nổi tiếng của ông : « Ở những nước bị trị, đấu tranh giai cấp đồng nghĩa với đấu tranh giành độc lập « .

Phải công nhận rằng từ năm 1921 tới 1949, Đảng Cộng sản Tàu dựa rõ ràng trên lý thuyết Mác Lê Staline. Những người như Trần độc Tú, Lý đại Siêu và ngay cả Mao lúc đầu đều tin tưởng cuồng nhiệt lý thuyết trên. Tiếc rằng lý thuyết này chỉ là một cái gì cặn bã của nền văn hóa Tây phương. Ông Domenach, một nhà rất am tường về lịch sử, văn hóa, triết học Tàu, có nói rằng những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Tàu không đủ trình độ để thấu hiểu cái hay cái dở của văn hóa Tây phương, cũng như cái hay cái dở của văn hóa Đông phương, đã chối bỏ tất cả những cái hay của văn hóa Đông phương, vội vã nhập cảng cái cặn bã của văn hóa Tây phương là chủ nghĩa Mác. Giới trí thức Tây phương họ đã ý thức điều này, như ông Pierre Joseph Proudhon, người đã từng bút chiến với Marx, đã nói : «  Chủ nghĩa của Marx, nếu được áp dụng, thì nó trở thành con sán lãi của xã hội. » Sau gần 100 năm thực hiện, chúng ta thấy lời nói trên quả là đúng, vì ở bất cứ xã hội cộng sản nào cũng bị mắc vào nạn tham nhũng hối lộ. Thêm vào đó, đảng cộng sản quả là con sán lãi, là một chính quyền thứ nhì, ăn lương và bổng lộc hơn cả chính quyền chính thức, mà lương và bổng lộc đó là đến từ thuế, lấy từ dân.

Ở đây tôi không thể đi sâu vào việc phê bình chủ nghĩa Marx Lénine Staline.

Ngay cả tập tài liệu mang tựa đề  «  Le Matérialisme dialectique et le Matérialisme historique «  ( Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật sử quan ), được Staline viết vào tháng 9 năm 1938 và được những người cộng sản coi như Kinh Thánh, điển hình là nếu ai theo dõi lịch sử và hình ảnh của Đảng cộng sản Tàu, thì đều thấy hình ảnh Mao ngồi trước nhà, ở trụ sở vùng Diên An, cầm tập tài liệu mang tên tiếng Pháp này.

Nhiều người cho rằng đây là một tập tài liệu mang tính chất khoa học, nhưng thực tế chẳng khoa học một chút gì, chỉ là những cái phủ nhận và xác nhận vô căn cứ ( affirmation gratuite). Có dịp tôi sẽ phê bình rõ tập tài liệu này. Ở đây tôi chỉ đưa ra một vài dẫn chứng.

Như Staline viết :

«  Contraire à la métaphysique, la dialectique regarde la nature non comme état de repos et d’immobilisme, de stagnation et d’immuabibité, mais comme un état de mouvement et de changement perpétuels, de renouvellement et de développement incessants, où toujours quelque chose nait et se développe, quelque chose se désagrère et disparaît «  J. Staline – Les Questions du Lénisme – trang 787 – Nhà xuất bản Norman Béthume – Paris 1969).

( Trái với siêu hình, biện chứng pháp nhìn vạn vật không ở trạng thái tĩnh và bất động, mà như một trạng thái động và phát triển không ngừng, nơi đó lúc nào cũng có một cái gì đó sinh ra và phát triển, cái gì đó tan rã và biến mất.)

Nguyên ở đây Staline dùng chữ siêu hình để chỉ tất cả những triết lý, triết học khác với triết học duy vật biện chứng là cách vơ đũa cả nắm ; và có chắc rằng những triết học đó nhìn thế giới trong một trạng thái tĩnh hay không. Điều này chưa chứng minh mà đã quyết đoán ( affirmation gratuite ). Quyển sách của Staline có giá trị tuyên truyền, quảng cáo như quảng cáo dầu cù là, «  Hàng tôi tốt nhất, tất cả hàng khác đều dở. Mại vô !  Triết lý duy vật biện chứng và duy vật sử quan là hay nhất. Tất cả triết lý khác là bỏ đi. Hãy theo chúng tôi ! « ,  hơn là một quyển có giá trị về khoa học và triết học.

Và còn nhiều đoạn văn tư tưởng khác mang cùng một lỗi này.

Theo khoa học, để kết luận một vấn đề, thì phải có đủ nguyên nhân ắt có và đủ, đây mới có nguyên nhân ắt có, thế mà Staline đã vội kết luận. Không có một tý gì là khoa học, tuy nhiên vẫn nghĩ mình là khoa học.

Trở về với Đảng Cộng sản Tàu, là trong thời gian đấu tranh cướp chính quyền, đảng này đã dựa rõ ràng, minh bạch, trên một lý thuyết chính trị, trái sai chưa cần nói tới.

2)  Từ năm 1949 đến 1963

Thời gian đầu nắm chính quyền tới lúc tranh chấp Nga – Hoa bùng nổ. Trong thời gian này triết lý chính trị lúc ban đầu đã bắt đầu đi trật hướng.

Trật hướng ở chỗ không còn «  Tình huynh đệ cộng sản «  nữa, trong việc Trung cộng gửi quân sang chiếm Tây Tạng và việc tranh chấp Nga – Hoa.

Trung cộng tố cáo Liên Sô là đi theo chủ nghĩa xét lại ( révisionnisme), không theo chủ nghĩa chính thống của Marx. Nhưng xét cho cùng thì cả 2 nước, từ thời Lénine đã đi theo chủ nghĩa xét lại. Theo Marx thì cách mạng cộng sản chỉ có thể xẩy ra ở những nước có một nền kỹ nghệ phát triển cao, vì chỉ ở nơi đây mới có giai cấp vô sản. Trong khi đó thì Lénine làm cách mạng cộng sản trong một nước nửa kỹ nghệ, nửa canh nông. Mao làm cách mạng cộng sản ở một nước hoàn toàn canh nông. Nhất là chiến lược «  Lấy nông thôn bao vây thành thị «  của Mao là dựa vào nông dân để làm cách mạng, hoàn toàn trái với Marx.

Trên phương diện tranh luận lý thuyết, Đảng Cộng sản Tàu đã gửi một Phái đoàn hùng hậu, dẫn đầu bởi Đặng tiểu Bình, Thư Ký thứ nhất của Đảng, gồm có Lưu thiếu Kỳ, Chủ tịch nhà nước, Chu ân Lai, Thủ tướng chánh phủ, sang Moscou, vào tháng 10 năm 1963, để tranh luận với Liên Sô, trong kỳ họp Đại hội Đảng của nước này. Những luận điệu do Đặng tiểu Bình đưa ra, và về sau ông thường nhắc lại, đó là «  Chỉ có chân lý thật khi nào được kiểm chứng bởi thực tế, thực tiễn. » Đây chỉ là quan điểm của chủ nghĩa duy thực tế, duy kinh nghiệm hạ cấp. Về khoa học ai cũng biết nếu lấy con mắt bình thường làm sao chúng ta có thể thấy được vi trùng hay các hành tinh cách trái đất cả tỷ cây số. Vì vậy chủ nghĩa duy kinh nghiệm, duy trực giác thật là hạn chế. Chính Tôn Tử của người Tàu đã nói :

«  Cho nên nhắc được cái lông mùa thu, không phải là nhiều sức, trông thấy mặt trời, mặt trăng không phải là sáng mắt, nghe thấy tiếng sấm, tiếng sét không phải là sỏi tai… Cho nên sự thắng của người thiện chiến không có tiếng khôn ngoan, không có cái công mạnh mẽ » ( Tôn Ngô Binh pháp – Ngô văn Triện dịch – trang 74+75).

Có những chân lý không kiểm chứng được bằng thực tế, thực tiễn. Như chân lý toán học, một khoa học có tính khoa học nhất trong những khoa học, mà cuối đời Marx công nhận và bỏ công ra nghiên cứu.

Thật vậy, chúng ta lấy một phương trình : f(x) = 2x. Phương trình này, chân lý này đúng với bất cứ giá trị nào của X, đi từ cực tiểu tới cực đại. Trên đời này không có con số nào nói lên được cực tiểu và cực đại. Cũng như trong hình học, vòng tròn được định nhĩa là tổng số những điểm cách đều một điểm cố định là trung tâm. Ở trên đời này không có một cái vòng tròn nào mà có thể kiểm chứng, kiểm nghiệm được với định nghĩa trên, vì vòng tròn nào, nếu tính theo sai số cao nhất, cũng là «  méo «  so với định nghĩa trên.

Cũng như câu nói cũng của họ Đặng : «  Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa « , mà Trung cộng và Cộng sản Việt Nam ngày hôm nay thường nhắc tới.

Câu này mâu thuẫn, vì kinh tế thị trường là kinh tế tự do, tư nhân, không bị chỉ huy, không thuộc về nhà nước. Còn kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là kinh tế quốc doanh, không có tự do và do nhà nước chủ động. 

3)  Từ năm 1963 tới năm 1972

Đây là khoảng thời gian có những biến cố quan trọng về chính trị quốc nội cũng như quốc ngoại. Đó là Cách mạng Hồng Vệ Binh, tranh chấp Nga – Hoa tới mức cao điểm và việc Trung cộng bắt tay với Mỹ.

Cách mạng Hồng vệ binh có mang một phần triết lý ý thức hệ, đó là chủ trương cách mạng cộng sản triệt để và đấu tranh giai cấp đến cùng, mà sự thể hiện của nó sau này rõ ràng nhất là cuộc diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, đã giết hơn 2 triệu dân trên tổng số hơn 5 triệu dân Căm bốt. Nhưng lý do chính của cuộc cách mạng này là cuộc tranh giành quyền hành giữa phe Mao trạch Đông và phe Lưu thiếu Kỳ, Đặng tiểu Bình và Chu ân Lai.

Ai cũng biết kế hoặch Đại Nhảy vọt, chủ trương bởi Mao, vào cuối những năm 50, đầu thập niên 60, bị thất bại. Thực tế Mao bị loại bỏ  ra ngoài quyền hành. Quyền hành ở Tàu lúc bấy giờ thuộc về bộ ba Lưu - Đặng – Chu. Sau đó Mao dùng chiến lược «  Hạ tầng ép thượng tầng « . Hạ tầng đây là sinh viên học sinh với sự yểm trợ của quân đội. Đó là ý nghĩa chính của cuộc cách mạng Hồng vệ binh. Nhưng cuộc cách mạng này đã đi quá lố, chính Mao về sau cũng không thể chấp nhận. Những sinh viên học sinh theo cách mạng đã hành xử như kiểu Soljennytsine nói : «  Cộng sản là những người đến từ một hành tinh khác với mục đích duy nhất là phá hủy tất, chém giết tất những cái gì thuộc về hành tinh con người « .

Về ngoại giao, 2 sự kiện nổi bật của thời gian này, đó là cuộc tranh chấp Nga Hoa đi đến cao điểm, có lúc người ta nghĩ có cuộc chiến tranh lớn giữa Liên Sô và Trung cộng. Lợi dụng tình thế, Hoa kỳ đã nhảy vào, khai thác sự chia rẽ này, đi đến việc bắt tay giữa Trung cộng và Hoa Kỳ năm 1972.

Cuộc gặp gỡ này có rất nhiều nguyên do, nhưng trong đó có 2 nguyên do chính :

Thứ nhất, cả 2 nước Liên Sô và Trung cộng, mặc dầu nói đến «  Tình huynh đệ cộng sản «  , nhưng trên thực tế cả 2 nước đều là đế quốc, nước nào cũng muốn làm chủ phong trào cộng sản quốc tế. Vì vậy đi đến tranh chấp và nước nào cũng ngụy biện, tố cáo nước kia là theo chủ nghĩa xét lại. Nhưng cả 2 đều xét lại tư tưởng của Marx từ lâu.

Lý do thứ 2, đó là đến từ đầu óc giản tiện ( simpliste), nếu không nói là suy nghĩ một chiều, không suy đi, tính lại của giới lãnh đạo cộng sản Tàu, bắt đầu từ Mao, cho tới ngày hôm nay. Thú dụ điển hình : Mao nghĩ rằng chim chóc phá hoại mùa màng, nay phát động phong trào giết chim, bắt dân già trẻ lớn bé phải đi giết chim. Hậu quả, chim không còn, sâu bọ sinh sản, phá hoại mùa màng. Mao đơn giản nghĩ rằng một nước kỹ nghệ là một nước có tổng sản lượng sản xuất sắt thép cao, bắt mọi gia đình phải làm lò luyện thép, ngay cả lò luyện bỏ túi « nhỏ, mang nồi niêu xong chảo nấu chảy thành sắt. Sau đó sắt thép luyện ra thiếu phẩm chất, nay làm lại nồi niêu xong chảo cũng không xong. Vận động dân làm những việc vô bổ. Cũng như Mao đơn giản nghĩ rằng một cường quốc phải là một quốc gia có bom nguyên tử. Đây là một trong những lý do đưa đến tranh chấp Nga - Hoa, vì Nga không chịu giúp Trung cộng làm bom nguyên tử. Lợi dụng tình thế này, một cách gián tiếp, theo như một giả thuyết, Hoa Kỳ nhảy vào giúp Trung cộng làm bom nguyên tử, bằng cách để cho 2 nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ, gốc Tàu, trốn về Trung Cộng.
Nhiều người hoan hô tinh thần thực tế của Trung cộng trong việc bắt tay với Hoa Kỳ. Tôi không chối cãi. Nhưng theo tôi, trên nguyên tắc triết lý căn bản, triết lý chính trị, thì có điều sai trái. Đó là, về ngoại giao, trước đó thì Trung cộng chửi Hoa Kỳ với tất cả mọi ngôn từ, nào là «  Hoa Kỳ, thế giới của sự bóc lột, của tội ác « , nào là « Hoa kỳ, con hổ giấy « , nay một sớm một chiều đổi giọng, làm như vậy không những dân không biết tin vào đâu, mà ngay cả những quốc gia trên thế giới cũng nghi ngờ chính quyền Trung cộng. Hành động đó, trên thực tế có nghĩa là từ bỏ triết học duy vật biện chứng, duy vật sử quan, mặc dầu ngay cho tới ngày hôm nay giới lãnh đạo Trung cộng vẫn hô hào là trung thành với « triết lý nền tảng này ».

1, 2

pay per click advertising

Weblinks :

 

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

 

 

free counters

Search: The Web    http://www.truclamyentu.info