lịch sử việt nam

Trang Chính

...

Biển Cả Và Con Người

...

Bưu Hoa Việt Nam

...

Dòng Thơ

...

Địa Linh Nhân Kiệt Của Việt Nam

...

Điện Toán - Tin Học

...

Hịch Tướng Sĩ

...

Hình Ảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

...

History Of Viet Nam

...

Hoàng Sa Trường Sa Là Của Việt Nam

...

Hồ Sơ Chủ Quyền Của Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam

...

Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

...

Nguyên Tử Của Việt Nam Và Quốc Tế

...

Tin Tức Thời Sự Việt Nam

...

Tư Tưởng Phật Giáo

...

Sitemap

...

Trang Thơ Văn nguyễn duy ân

...

Trang Thơ Văn Ông Bút

...

Trang Thơ Văn Đặng Quang Chính

...

Trang Thơ Văn Nguyễn Quang Duy

...

Trang Thơ Văn Trần Văn Giang

...

Trang Thơ Văn Lu Hà

...

Trang Thơ Văn Đông Hải Nguyễn Đức Hiền

...

Trang Thơ Văn Dạ Lệ Huỳnh

...

Thư Tín

...

Weblinks:

 

Lịch Sử Việt Nam Cận Đại

Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006

Web: http: //khoi8406vn. blogspot. com/
Email: vanphong8406@gmail. com

khối 8406

Tuyên bố
về Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long

Kính thưa Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.

Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đang tưng bừng chuẩn bị Đại lễ kỷ niệm việc vua Lý Thái Tổ, cách đây 1000 năm, đã chọn đất Thăng Long (Hà Nội hiện giờ) làm thủ đô của nước Việt, khai mở một thời đại trong đó dân Việt thoát khỏi vòng lệ thuộc Trung Hoa, sống độc lập tự chủ.            

1- Theo chính sử của Dân tộc như Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn và Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim, thì việc xây cất thành Thăng Long khởi sự vào tháng 7 (âm lịch) đầu thu năm Canh Tuất (1010), tương đương với ngày 10 tháng 08 dương lịch. Như thế Đại lễ kỷ niệm phải mừng vào mồng 10 tháng 08 năm 2010. Thế nhưng nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã tự ý chọn thời điểm khai mạc đại lễ vào ngày 01 tháng 10 là quốc khánh của Trung Hoa Cộng sản và bế mạc vào ngày 10 tháng 10 là quốc khánh của Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan).           

Đây vừa là hành vi xúc phạm biểu tượng thiêng liêng của Thăng Long, một biểu tượng nói lên tinh thần tự chủ độc lập của đất nước, ý thức bảo vệ lãnh thổ của Dân tộc suốt 1000 năm qua, vừa là thái độ sỉ nhục anh linh của hàng triệu con Hồng cháu Lạc đã đem xương máu chống quân xâm lược Bắc phương suốt dòng lịch sử để bảo vệ nền độc lập Tổ quốc cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ, vừa là ý đồ của đảng CSVN muốn Dân tộc và Đất nước lệ thuộc Trung Quốc hơn nữa, như đã lệ thuộc kể từ thời đảng Lao động chịu sự điều khiển của Mao Trạch Đông.           

2- Dù là chế độ Phong kiến rồi chế độ Pháp thuộc, 1000 năm qua cũng là thời đại trong đó Dân tộc Việt Nam chúng ta :

- đã luôn đoàn kết trên dưới một lòng chống ngoại thù xâm lược (tiêu biểu là Hội nghị Diên Hồng triều Trần),

- đã nỗ lực xây dựng được một nền luật pháp tương đối công minh và nhân bản mà vua dân đều phải tuân giữ (tiêu biểu là Luật Hồng Đức triều Lê),

- đã biết quý chuộng chữ nghĩa thánh hiền, tuyển chọn nhân tài từ mọi tầng lớp, thường xuyên theo chính sách chiêu hiền đãi sĩ (tiêu biểu là Văn miếu và Quốc Tử giám từ triều Lý),

- đã tạo một môi trường thuận lợi cho bao tác phẩm văn chương xuất hiện (tiêu biểu như Truyện Kiều của Nguyễn Du),

- đã xây dựng được một số định chế để ngăn chặn khuynh hướng chuyên quyền độc tài của quân vương và triều đình (tiêu biểu là chức quan ngự sử và cơ cấu làng xã họ tộc với ngạn ngữ “Phép vua thua lệ làng”),

- đã tôn trọng các tôn giáo và duy trì tinh thần tôn giáo hòa đồng (tiêu biểu là sự du nhập và phát triển của Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Công giáo, Hồi giáo, Tin lành…; sự xuất hiện của các tôn giáo bản địa như Cao đài, Hòa hảo, Bửu sơn Kỳ hương…),

- đã luôn tôn trọng quyền tư hữu đất đai của nhân dân, dù mỗi chế độ hay mỗi triều đại có những chính sách điền địa khác biệt (tiêu biểu là Luật Người cày có ruộng thời Đệ nhị Cộng hòa),

- đã bắt đầu phát huy tinh thần dân chủ trong chế độ Pháp thuộc và chế độ Việt Nam Cộng hòa (tiêu biểu là quyền ngôn luận và nền báo chí tương đối tự do trong hai chế độ này).

- đã luôn vui sống tại nơi chôn nhau cắt rốn, trên mảnh đất hình chữ S mà Tổ tiên đã để lại trong niềm tôn trọng tình nghĩa đồng bào, bảo vệ môi trường thiên nhiên.

· Lẽ ra, trong tinh thần chuẩn bị xa và chuẩn bị gần cho Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, các giá trị văn minh nhân bản mà bao thế hệ Việt tộc đã dày công xây dựng đó phải luôn được tưởng nhớ, đề cao và thể hiện.

· Thế nhưng, qua hơn nửa thế kỷ dưới chế độ Cộng sản, Dân tộc Việt đã đau đớn nhìn thấy:

- lãnh thổ và lãnh hải mất từng mảng lớn vào tay quân bành trướng Đại Hán, lãnh đạo CS chưa bao giờ đoàn kết thực sự với nhân dân để chống ngoại bang xâm lược.

- luật pháp chỉ được áp dụng và áp dụng khắt khe cho thường dân, còn đảng và nhà nước thì được miễn trừ, đảng viên và cán bộ thì được nhẹ tay, châm chước hay thoát khỏi.

- giáo dục loại trừ người nghèo (vì đủ thứ học phí và phụ phí), phân biệt chính kiến (hồng hơn chuyên); việc tuyển chọn nhân tài và viên chức nhà nước thì theo tiêu chuẩn đảng tịch, thân thích và tiền bạc; nhiều trí thức của đất nước bị bỏ phế hay cầm tù vì bất đồng quan điểm với đảng.

- văn chương, nghệ thuật nằm dưới vòng kim cô của đảng, phải phục vụ mục tiêu chính trị do đảng đề ra; chẳng có tác phẩm giá trị nào xuất hiện ngoại trừ những tác phẩm mang tính đối kháng hay phê bình chế độ.

- cơ chế chính trị đảng quyền, độc tài và toàn trị tiêu diệt hết mọi nhân quyền và dân quyền, biến tam quyền phân lập thành tam quyền phân công dưới sự chỉ đạo hoàn toàn của đảng; công an và quân đội trở thành công cụ trong tay đảng và chỉ phục vụ đảng; bàn tay sắt của đảng áp đặt từ trung ương tới địa phương.

- các tôn giáo bị đảng và nhà cầm quyền tìm cách kiểm soát, khống chế, xâm nhập, lũng đoạn và làm thoái hóa bản chất: trở thành đồ trang trí hay biện hộ viên cho chế độ; các tín hữu đấu tranh cho tự do tôn giáo, công bằng xã hội hay dân chủ nhân quyền thì bị đàn áp.

- toàn bộ đất đai đều thuộc quyền quản lý (thực chất là quyền sở hữu) của nhà nước (thực tế là của đảng viên cán bộ có chức quyền); nhân dân (cá nhân, dòng tộc, giáo hội) chỉ còn quyền sử dụng, thành thử phải chịu bao điêu đứng trong sinh sống và hoạt động.

- quyền tự do ngôn luận, vốn là quyền đầu tiên, bị hoàn toàn triệt tiêu; báo chí và các phương tiện truyền thông khác đều nằm trong tay đảng và nhà nước; các nhà dân báo độc lập bị sách nhiễu, ngăn chận, cầm tù.

- hơn ba triệu người đã đau đớn rời bỏ quê cha đất tổ, đứt ruột từ giã nơi chôn nhau cắt rốn vì không chịu nổi chế độ phi nhân hà khắc, gian dối tàn bạo. Trong đó, một nửa đã thành công đến được bến bờ tự do, nhưng một nửa đã phải trả giá cho việc tìm tự do bằng cái chết hoặc bằng thảm nạn: bị cướp bóc, hãm hiếp, đánh đập trên biển, giữa rừng, trong tù (khi bị bắt lại)… Xã hội Việt Nam thì thiếu vắng tình nhân loại nghĩa đồng bào, đánh mất ý thức bảo vệ môi trường sống...

· Đang khi đó, Tuyên ngôn Thiên niên kỷ (cũng lại 1000 năm) của Liên Hiệp Quốc (1) mà Việt Nam đã phê chuẩn, có nêu một số giá trị căn bản giữ vai trò thiết yếu trong quan hệ quốc tế của thế kỷ 21 (để thế giới cùng nhau phát triển theo chiều hướng toàn cầu hóa) là:

- Về tự do: Điều hành đất nước theo nguyên tắc dân chủ, có sự tham gia của người dân và trên căn bản ý chí của người dân.

- Về bình đẳng: Không được phép tước đoạt cơ hội thụ hưởng kết quả từ hoạt động phát triển của bất cứ cá nhân nào hoặc Dân tộc nào.

- Về khoan dung: Con người phải tôn trọng lẫn nhau, trong sự đa dạng về tín ngưỡng, văn hóa và ngôn ngữ.

Tuyên ngôn Thiên niên kỷ còn nêu rõ ý thức và hành động cho hòa bình, an ninh và giải trừ quân bị, cho việc phát triển và xóa đói giảm nghèo, cho việc bảo vệ môi trường sinh sống, nhân quyền dân chủ và bảo vệ những người dễ bị tổn thương… Thế nhưng, trong tất cả những ghi nhận trên của văn kiện quốc tế này, Việt Nam cho đến hôm nay vẫn chưa thực hiện được điều gì cả, trái lại đảng thống trị và nhà cầm quyền CS còn làm cho đất nước, xã hội Việt Nam ngày càng tệ hại và cuộc sống nhân dân ngày càng khốn khổ.

3- Thông tin lại cho biết nhà cầm quyền đã bỏ ra một số tiền khổng lồ là 4 tỷ rưỡi đôla (tiền thuế do nhân dân đóng góp, gần tương đương 10% ngân sách quốc gia) để chi tiêu hoang phí (và để tha hồ tham nhũng) vào việc tổ chức với những hình thức phô trương hết sức vô ích, như làm 101 trống đồng, 1000 trống da, 1000 bức tượng rồng thời Lý, những cổng chào, những phù điêu phi nghệ thuật và vô ý nghĩa, như sơn lại phố cổ Hà Nội, làm mới thay vì phục dựng các di tích, như tổ chức lễ khai mạc với diễu binh, diễu hành, biểu diễn trực thăng với khoảng 10 ngàn người tham dự, chi hàng trăm tỷ để đóng những cuốn phim lịch sử, chi hàng chục tỷ cho một số báo đưa tin đại lễ. Đang lúc đó, nhân dân trong nước thiếu thốn mọi bề, đặc biệt là thiếu trường học, bệnh viện, cầu qua sông….

Ngoài ra, việc đóng những cuốn phim lịch sử với đạo diễn Tàu, trường quay Tàu, phong cách Tàu, diễn viên phụ Tàu; việc lợi dụng Đại lễ kỷ niệm để tuyên truyền cho đảng Cộng sản Việt Nam lẫn Trung Quốc, để lập dự án ăn cướp đất đai nhà cửa của nhân dân, tất cả chỉ làm cho dân tình càng thêm ngao ngán, phẫn nộ và cùng cực.

4- Do đó Khối 8406 chúng tôi tuyên bố:

- Đảng và nhà cầm quyền độc tài toàn trị CS hiện đang làm những việc rất lố bịch và tệ hại, trái với ý chí của Tiền nhân, tinh thần của Đại lễ và ý nghĩa của biểu tượng Ngàn năm Thăng Long.

- Qua Đại lễ Ngàn năm Thăng Long mang đậm dấu ấn Trung Cộng như thế, Đảng và nhà cầm quyền độc tài toàn trị CS ngang nhiên xác nhận: thời kỳ Bắc Thuộc kiểu mới thế kỷ XXI đang ngày càng rõ ràng hiện thực, với tình hình đất, rừng, biển và nhiều nguồn lợi kinh tế khác của Tổ quốc Việt Nam mất dần vào tay Trung Cộng, với tình trạng Đất nước ngày càng lệ thuộc Trung Cộng về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, an ninh quốc phòng.

- Đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam hiện nay cũng như trong quá khứ do đó phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước Dân tộc và lịch sử về những hành động cực kỳ tai hại và mù quáng gây nên nguy cơ mất nước kiểu mới này (2).

- Kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long cần phải được mừng không phải với việc tổ chức những lễ lạc hoành tráng, những hội hè rỗng tuếch, những trình diễn lãng phí, mà là với việc tưởng niệm, đề cao và khôi phục những giá trị văn hóa đầy nhân bản của Dân tộc nói trên xoay quanh tâm điểm là con người.    

Việt Nam, ngày 12 tháng 09 năm 2010.
Ban Đại diện Lâm thời Khối 8406
1. Kỹ sư Đỗ Nam Hải - 441 Nguyễn Kiệm, P. 9, Q. Phú Nhuận, Sài Gòn, Việt Nam.
2. Giáo sư Nguyễn Chính Kết - đang vận động dân chủ tại hải ngoại.
3. Linh mục Nguyễn Văn Lý - đang điều trị bệnh dưới dạng quản thúc tại Nhà Chung Tòa Tổng Giám mục Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam.
4. Linh mục Phan Văn Lợi - đang bị quản chế tại gia ở 16/46 Trần Phú, Huế, Việt Nam.
Trong sự hiệp thông với cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều tù nhân chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù cộng sản.
------------------------------------------
(1) Wikipedia
(2) Xin xem Tuyên bố của Khối 8406 nhân dịp kỷ niệm 4 năm ngày thành lập (8/4/2006–2010).

Phụ lục
Tuyên bố của Khối 8406 nhân dịp kỷ niệm 4 năm ngày thành lập (8/4/2006 – 8/4/2010).

            Kính gửi:
‒ Toàn thể đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.

‒ Các quốc hội và chính phủ dân chủ, các tổ chức nhân quyền và cộng đồng thế giới tiến bộ.

Khối 8406 được thành lập vào ngày 8-4-2006, là ngày mà bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006 (gọi tắt Tuyên ngôn 8406) được phổ biến rộng rãi. Với số thành viên ban đầu là 118 người dân trong nước, chỉ một thời gian ngắn sau đó, Khối 8406 đã nhận được sự ủng hộ và tham gia mạnh mẽ của hàng ngàn, rồi hàng chục ngàn đồng bào Việt Nam ở quốc nội lẫn hải ngoại.

Đồng thời, nhiều nhà hoạt động chính trị, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, nhiều tổ chức phi chính phủ và công dân bình thường thuộc nhiều quốc gia trên thế giới như: Anh, Ba Lan, Đức, Gia Nã Đại, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Tiệp Khắc, Úc… cũng đã nhiệt liệt chào mừng và ủng hộ tinh thần lẫn nội dung bản Tuyên ngôn 8406; ca ngợi lòng dũng cảm của các thành viên Khối 8406 đã dám vượt qua mọi nỗi sợ hãi, quyết đứng lên đương đầu trực diện với chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam, nhằm đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ thực sự cho dân tộc.

Trong lá Thư Ngỏ ngày 23-5-2006 của các nhân sĩ, trí thức, chính trị gia,… thuộc nhóm Hiến Chương 77 Tiệp Khắc, gửi đi từ thủ đô Praha cho Khối 8406, có đoạn viết: “Chúng tôi đã được biết đến "Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006” của các bạn. Chúng tôi rất trân trọng sự can đảm của các bạn trong hoàn cảnh chính trị tương tự như ở nước chúng tôi năm 1977, khi văn kiện cơ sở của Hiến Chương 77 được công bố. Chúng tôi biết rằng các bạn đang phải hứng chịu nguy cơ bị các cơ quan chính quyền truy nã, và chúng tôi hy vọng rằng mỗi biểu hiện đoàn kết sẽ là sự khích lệ và tăng cường sức mạnh cho các bạn. (…) Chúng tôi không thờ ơ trước vận mệnh đất nước Việt Nam. Chúng tôi tin rằng tiếng nói của các bạn sẽ không bị bóp nghẹt. Cho dù về mặt hình thức thì Hiến Chương 77 đã ngừng hoạt động sau tháng 11-1989, nhưng chúng tôi rất lấy làm vui mừng được bày tỏ sự ủng hộ đối với các bạn trên tư cách những cá nhân. Chúng tôi xin chúc cho nỗ lực của các bạn sẽ dẫn đến việc thiết lập nền tự do trong khoảng thời gian ngắn hơn là chúng tôi đã đạt được trong phong trào Hiến Chương 77…

Trong lá thư gửi ngày 30-5-2006 từ thủ đô Washington, do 50 vị dân biểu Hoa Kỳ cùng ký tên có đoạn: “…Chúng tôi hy vọng lá thư này sẽ nhắc nhở cho những ai có ý đồ muốn bóp nghẹt những tiếng nói đòi tự do hoặc toan tính đe dọa hay đàn áp những người dân đã bày tỏ quan điểm của họ một cách bất bạo động là: mọi sự vi phạm nhân quyền sẽ mâu thuẫn với một hình ảnh ổn định và tiến bộ mà chính quyền Việt Nam đang muốn có. Đây là điều toàn thể thế giới đang theo dõi. Với tất cả những ai đang sống tại Việt Nam đã ký tên vào những văn kiện lịch sử này, sự can đảm và quyết tâm của quý vị để bảo vệ tự do của con người bằng phương pháp bất bạo động là tấm gương sáng cho đồng bào cả nước, cho chính chúng tôi và cho toàn thế giới. Chúng tôi cam kết sẽ sát cánh cùng quý vị trong cuộc đấu tranh này…

Cũng với một tinh thần đó, ngày 6-12-2006, tại phòng họp Quốc hội Liên bang ở thủ đô Canberra đã có 36 Dân biểu và Thượng Nghị sĩ Australia cùng ký tên vào một bức thư chung như sau: “...Chúng tôi ký tên dưới đây là những Dân biểu và Thượng nghị sĩ Australia muốn bày tỏ sự ủng hộ và ngưỡng mộ của chúng tôi đối với 118 công dân Việt Nam can đảm, được biết dưới tên Khối 8406 đã đồng ký tên vào bản Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam, ngày 8-4-2006 để kêu gọi cuộc vận động ôn hòa cho một tiến trình dân chủ hóa và đa đảng ở Việt Nam. (...) Sự góp mặt của phong trào dân chủ này chứng tỏ rằng khát vọng cho tự do và dân chủ là quy luật phổ quát cho tất cả các Dân tộc trên thế giới và phù hợp với những nguyên tắc được Quốc hội Australia tôn trọng. Là những đại diện được dân chúng bầu lên trong một nền dân chủ, chúng tôi có bổn phận phải lên tiếng thay cho những người mà tự do dân chủ của họ bị tước đoạt. Chúng tôi kêu gọi chính phủ nước CHXHCN Việt Nam hãy lắng nghe tiếng nói của Dân tộc mình và hãy có những bước tiến thích hợp để thay đổi và hướng về một xã hội tự do dân chủ, hội nhập hoàn toàn vào cộng đồng Quốc tế và thị trường toàn cầu. Thế giới đang theo dõi những gì đang diễn ra ở Việt Nam...”.

Nhân dịp kỷ niệm 4 năm ngày thành lập Khối 8406 (8/4/2006 – 8/4/2010), chúng tôi một lần nữa xin chân thành cảm ơn mọi sự ủng hộ, giúp đỡ đầy nhiệt tình và hiệu quả của đồng bào Việt Nam trong lẫn ngoài nước; của bạn bè quốc tế khắp 5 châu đối với Khối 8406 nói riêng và phong trào dân chủ Việt Nam nói chung, trong những năm qua. Chúng tôi nguyện sẽ luôn luôn xứng đáng với lòng tin yêu đó của mọi người và khẳng định rằng: cho dù chặng đường trước mặt còn phải trải qua khó khăn, gian khổ khốc liệt đến mấy, chúng tôi vẫn tiếp tục dấn thân, quyết cùng với dân tộc và thế giới tiến bộ đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ thực sự cho Tổ quốc Việt Nam thân yêu!

Cũng nhân dịp này, Khối 8406 xin tuyên bố với đồng bào Việt Nam và cộng đồng thế giới như sau:

1) Trung thành tuyệt đối với tinh thần và nội dung Tuyên ngôn 8406 qua các điểm:

- Mục tiêu đấu tranh là thay thế triệt để thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, phi dân chủ, phản dân tộc, không chấp nhận sự cạnh tranh của các chính đảng khác trên chính trường hiện nay bằng thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng và pháp trị tiến bộ.

- Phương pháp đấu tranh là mọi phương pháp mà các cá nhân, tập thể, tổ chức bất bạo động đã sử dụng kiến hiệu từ lâu nay trên thế giới, đặc biệt nơi thánh Gandhi, luật sư Martin Luther King, phong trào dân chủ tại Đông Âu các năm 1989-1991 và phong trào dân chủ tại Việt Nam hiện giờ.

- Lực lượng của cuộc đấu tranh là đại bộ phận dân tộc Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước, bao gồm mọi giới : trí thức, viên chức, văn nghệ sĩ, thương nhân, công nhân, nông dân, cựu chiến binh, sinh viên, học sinh… và cả 2 lực lượng quân đội lẫn công an mà hiện nay cũng thuộc tầng lớp bị trị. Ngoài ra còn có cộng đồng thế giới dân chủ tiến bộ. Tất cả làm thành sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.

- Động lực đồng thời là khối tiên phong của cuộc đấu tranh là tầng lớp sĩ phu chân chính trong giới trí thức và giới tu hành vốn không chịu thờ ơ, vô cảm trước khổ đau của đồng bào và đồng loại để chỉ chăm lo cho bản thân hay cộng đồng mình.

- Đối tượng của cuộc đấu tranh là các thế lực độc tài, phản dân chủ đang nắm thực quyền trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay và những thành phần cấu kết với họ để chia chác quyền lực và quyền lợi. Thế lực này đang thiết lập và duy trì ách thống trị của họ một cách hết sức bất lương và tàn ác lên đầu lên cổ dân tộc, đang vì quyền lợi ích kỷ của tập đoàn mình mà chà đạp thô bạo quyền lợi chính đáng của tuyệt đại đa số nhân dân! Chính họ đang bất chấp sự tụt hậu của quốc gia, sự suy vong của giống nòi mà phớt lờ ý chí và nguyện vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam hôm nay là thực sự dân chủ hoá đất nước! Vì vậy, trong lòng dân tộc hiện thời, đang có mâu thuẫn lớn lao và cơ bản giữa giai cấp thống trị thiểu số cực kỳ tham lam, tàn ác, sống xa hoa phè phỡn, với giai cấp bị trị chiếm đại đa số đang sống rên xiết lầm than như nô lệ.

- Ý nghĩa của cuộc đấu tranh là chính nghĩa nhất định thắng phi nghĩa, tiến bộ nhất định thắng lạc hậu và chí nhân nhất định thắng bạo tàn!

2) Khẳng định dựa trên tất cả những gì đã và đang diễn ra, rằng:

Dứt khoát không thể xây dựng một Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong tình trạng vẫn còn tồn tại chế độ độc tài, độc đảng và toàn trị hiện nay! Chế độ này không thể gìn giữ đạo đức xã hội đang ngày càng xuống cấp, không thể chống được quốc nạn tham nhũng đang ngày càng hoành hành, không thể bảo vệ sự an toàn của mỗi công dân và mỗi gia đình đang ngày càng bị xâm phạm, không thể bảo toàn nền an ninh quốc gia đang ngày càng bị đe dọa…

Nguy hiểm hơn, chế độ ấy đang đẩy dân tộc ta vào một nguy cơ mất nước kiểu mới đến từ kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Về vấn đề này, Khối 8406 chúng tôi nhận định rằng: Trong điều kiện, hoàn cảnh quốc tế ngày nay, việc Trung Quốc đem quân xâm lược toàn bộ Việt Nam có khả năng rất thấp. Thế nhưng, việc Trung Quốc tìm mọi cách mua chuộc và khống chế một số thành phần lãnh đạo trọng yếu trong bộ máy cầm quyền Hà Nội, để số này răm rắp phục tùng chiếc gậy chỉ huy của Bắc Kinh là điều hoàn toàn có thể và khả năng này rất cao. Thực chất, đây là cách dùng người Việt cai trị người Việt theo kiểu thái thú mà không cần xâm lược bằng quân sự theo kiểu cổ điển. Nói cách khác, đây là thủ đoạn “Polpot hoá”, “Khơme đỏ hoá” Việt Nam, mà Trung Quốc từng sử dụng tại nước gọi là “Campuchia dân chủ” trong giai đoạn 1975–1979, đẩy dân tộc hiền hòa này vào thảm họa diệt chủng kinh hoàng.

Những biểu hiện của chủ trương đó là Trung Quốc đã chiếm đoạt hàng ngàn km2 lãnh thổ biên giới và hàng chục ngàn km2 lãnh hải biển Đông; đã nhiều phen ngang nhiên cấm cản hay bắn thẳng vào ngư dân Việt Nam khi họ ra khơi đánh cá trong lãnh hải Tổ quốc; đã trúng thầu dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên và hàng trăm dự án xây nhà máy, xây xa lộ trên khắp cả nước; đã được “thuê miễn phí” 50 năm hàng trăm ngàn hécta rừng quốc phòng, rừng phòng hộ từ Bắc chí Nam; đã thiếp lập nhiều khu cư dân Trung Quốc bất khả xâm phạm tại nhiều tỉnh thành; đã du nhập ồ ạt vào Việt Nam vô số sản phẩm tàn hại nền văn hóa và kinh tế quốc gia cũng như tai hại cho sức khỏe đồng bào… Tất cả đều có sự dung túng, nhượng bộ, đi đêm hay đồng lõa của đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, mọi ý kiến cảnh báo nguy cơ Bắc triều, mọi hành động phản đối lân bang xâm lược đều đã bị Hà Nội coi khinh hay đàn áp.   

3) Đòi hỏi Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam

+ Tôn trọng các quyền tự do của mọi công dân, tôn trọng quyền tự quyết của toàn thể Dân tộc.

+ Thả khỏi tù ngay tức khắc và vô điều kiện tất cả những công dân yêu nước vì đấu tranh cho tự do dân chủ mà phải bị tống ngục. (Danh sách chưa đầy đủ được đăng ở phần Phụ lục, đính kèm với bản Tuyên bố này.)

+ Chấm dứt ngay mọi hành động vi phạm nghiêm trọng quyền con người, vi phạm chính Hiến pháp, luật pháp của CHXHCN Việt Nam đối với những người đấu tranh dân chủ như: theo dõi canh gác, quản chế tại gia, buộc đi thẩm vấn, nghe trộm điện thoại, đọc trộm bưu thư điện thư, cắt điện thoại và internet; nhục mạ khi tiếp xúc, vu cáo trên phương tiện truyền thông; khám tư gia, tịch thu tài sản, xử phạt hành chính; đuổi việc, bao vây kinh tế, sách nhiễu thân nhân; sử dụng côn đồ hành hung, ném chất bẩn vào nhà; ngăn cản những người đấu tranh dân chủ trong lẫn ngoài nước gặp gỡ nhau; tạm giam trái phép, xét xử và kết án nhiều năm tù với những tội danh vu vơ, ngụy tạo, v.v… Tất cả những hành động xấu xa, bỉ ổi này của công an và tòa án Việt Nam, dưới sự điều khiển của đảng cộng sản địa phương hoặc trung ương, đều được khoác lên cụm mỹ từ “bảo vệ an ninh quốc gia và ổn định trật tự xã hội!”.

4) Nhiệt liệt chào mừng sự trở lại với xã hội bình thường, trong tự do hạn chế, của 2 thành viên ưu tú thuộc Khối 8406 là linh mục Nguyễn Văn Lý và luật sư Lê Thị Công Nhân. Đồng thời thiết tha tưởng nhớ hàng chục thành viên khác đang hy sinh cho đại cuộc trong lao tù cộng sản.

5) Chân thành cảm ơn và hoàn toàn ủng hộ vô số nỗ lực của đồng bào lẫn thân hữu quốc tế nhằm hỗ trợ cho các tù nhân lương tâm, nhất là những bản tuyên bố mới đây của các tổ chức: Văn Bút Quốc tế, Ân Xá Quốc Tế, Cao Trào Nhân Bản và một số Cộng đồng người Việt hải ngoại về việc đòi trả tự do hoàn toàn, vĩnh viễn cho linh mục Nguyễn Văn Lý và chấm dứt ngay việc quản chế, xách nhiễu đối với luật sư Lê Thị Công Nhân.

6) Hết lòng ca ngợi đức dũng cảm, chí bất khuất, sự mưu trí và tinh thần bền bỉ đấu tranh bất chấp khó khăn, nguy hiểm… của mọi thành viên Khối 8406 trong lẫn ngoài nước. Sự hy sinh của quý Anh Chị Em là vô cùng quý giá và rất đáng trân trọng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của Khối 8406 nói riêng và phong trào dân chủ Việt Nam nói chung.

7) Nhân việc tái phát động trong dịp này chiến dịch “MẶC ÁO TRẮNG VÀO NGÀY MỒNG 01 VÀ 15 MỖI THÁNG, ĐỂ ỦNG HỘ DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM”, chúng tôi xin kêu gọi toàn thể đồng bào trong lẫn ngoài nước vui lòng hưởng ứng mạnh mẽ, và các trang mạng đấu tranh vui lòng phổ biến rộng rãi chiến dịch đó. Sau cùng, chúng tôi kêu mời cộng đồng thế giới tiến bộ hãy cùng đồng tâm hiệp sức với chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp dân chủ hóa Việt Nam cho đến ngày giành được thắng lợi hoàn toàn!

Làm tại Việt Nam ngày 3 tháng 4 năm 2010.
Ban Đại diện lâm thời Khối 8406:
1. Kỹ sư Đỗ Nam Hải - 441 Nguyễn Kiệm, P. 9, Q. Phú Nhuận, Sài Gòn, Việt Nam.
2. Linh mục Phan Văn Lợi - 16/46 Trần Phú, Thành phố Huế, Việt Nam.
3. Linh mục Nguyễn Văn Lý - đang bị quản thúc tại 69 Phan Đình Phùng Tp Huế. (Nhà Chung Tổng giáo phận Huế),
4. Giáo sư Nguyễn Chính Kết - đang vận động dân chủ tại hải ngoại.
Trong sự hiệp thông với cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều tù nhân chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù cộng sản.

 

pay per click advertising

Thông Báo: Trang nhà Trúc Lâm Yên Tử nhận đăng quảng cáo cho các cơ sở thương mại. Rất mong đón nhận sự ủng hộ của quý độc giả ở khắp mọi nơi. Đa tạ. Xin vui lòng liên lạc qua email truclamyentu@truclamyentu.info để biết thêm chi tiết. We add your banner or small texted-based on our website, please contact us at truclamyentu@truclamyentu.info. Thanks

Đang xem báo Trúc-Lâm Yên-Tử

free counters

un compteur pour votre site